CHỈ THẲNG CHƠN TÂM: CHƠN KHÔNG-THƯỜNG CHIẾU

subacHT. Thích Đắc Pháp

Ngài Khuê Phong nói: “Chơn tâm rỗng rang mà thuần diệu, rực rỡ mà mầu sáng, chẳng đến chẳng đi, thông suốt cả ba mé, chẳng phải trong ngoài, suốt khắp mười phương. Chẳng sanh chẳng diệt, bốn núi nào có thể hại. Lìa tánh lìa tướng, nào bị năm sắc làm mờ”.

Ngài Vĩnh Minh trong Duy Tâm Quyết nói: “Xét về tâm này là cái diệu trong lẽ mầu mà hội khắp, là vua của muôn pháp. Ba thừa năm tánh đều thầm về, hay là mẹ của nghìn bậc Thánh.

Độc tôn độc quí không gì sánh bằng. Thật là nguồn của đại đạo, là chơn pháp yếu vậy. Tin tâm này, nên ba đời Bồ Tát đồng học là học tâm này. Ba đời Bồ Tát đồng chứng là chứng tâm này. Một đại tạng giáo giải rõ là hiển tâm này. Tất cả chúng sanh mê vọng là mê tâm này. Tất cả hành nhơn phát ngộ là ngộ tâm này. Chư Tổ truyền nhau là truyền tâm này. Chư tăng trong thiên hạ đều tham học là tham học tâm này. Đạt tâm này thì mỗi mỗi đều phải, vật vật đều toàn bày. Mê tâm này thì nơi nơi đều điên đảo, niệm niệm đều si cuồng”.

Bản thể của Chơn tâm chính là Chơn Không

Hỏi: Bản thể của Chơn tâm như thế nào ?

Đáp: Chơn Không thể trong lặng như trong Kinh Phóng Quang Bát Nhã nói: “Bát Nhã không có tướng có và tướng sanh diệt”. Luận Khởi tín nói: “Tự thể của chơn như, tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và chư Phật đều không thêm bớt, cũng chẳng phải trước sanh sau diệt mà rốt ráo thường còn. Từ xưa tới nay tánh nó tự đầy đủ tất cả công đức”.

Căn cứ theo các Kinh Luận thì bản thể chơn tâm siêu xuất nhơn quả, thông suốt cổ kim, chẳng lập phàm thánh và không có các đối đãi. Như hư không biến khắp tất cả. Diệu thể ngưng tịch, dứt hết các hí luận, chẳng sanh chẳng diệt, phi hữu phi vô, chẳng động chẳng lay, trạm nhiên thường trụ.

Phật dạy, Tổ dạy lập danh không đồng nhau. Kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề, vì lấy giác làm thể. Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới, vì giao triệt và dung nhiếp. Kinh Kim Cang gọi là Như Lai, vì không từ đâu đến. Kinh Bát Nhã gọi là Niết Bàn, vì là chỗ qui hướng của chư Thánh. Kinh Kim Quang inh gọi là Như Như, vì chơn thường bất biến. Kinh Tịnh Danh gọi là Pháp  Thân, vì là chỗ nương của báo thân và hóa thân. Luận Khởi Tín gọi là Chơn Như, vì chẳng sanh chẳng diệt. Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là bản thể của ba thân.

Chư Tổ có lúc gọi là Tự Kỷ, vì là bản tánh của chúng sanh. Gọi là Chủ Nhơn Ông ngày xưa, là người ở mé kia của Phật Oai Âm, là Tự Kỷ của trước hông Kiếp. Một giống thường hằng không  một mảy may tì vết, tất cả sơn hà đại địa, cỏ cây rừng bụi, vạn tượng sum la, các pháp nhiễm tịnh, đều từ trong ấy mà ra.

Thể này là cái Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh, là căn nguồn phát sanh của tất cả thế giới. Sở dĩ Đức Thế Tôn ở ngọn Thứu Phong lặng thinh, Ngài Thiện Hiện dưới ngọn núi quên lời, Ngài Đạt Ma nơi Thiếu Thất ngó vách, ông cư sĩ thành Tỳ Da ngậm miệng đều nhằm hiển bày cái diệu thể của tâm này. Cho nên, người mới vào cửa Tổ, cần yếu trước tiên phải hiểu tâm thể này vậy.

Diệu dụng của Chơn tâm chính là Thường Chiếu:

Hỏi: Bản thể của chơn tâm đã biết. Diệu dụng của chơn tâm thế nào?

Đáp: Thường Chiếu dụng vô song. Theo kinh điển của đức Phật nói về chỗ diệu dụng của Chơn tâm thì Kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì, vì mọi công đức từ đó mà lưu xuất, Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng, vì ẩn phú và hàm nhiếp. Kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác, vì hay chiếu phá mờ tối. Phật dạy trong Bồ Tát Giới gọi là Tâm Địa, vì hay phát sanh muôn việc thiện.

Dưới cửa Tổ Sư chỉ vì ứng theo cơ duyên nên tên cũng lắm. Có lúc gọi là Chánh Nhãn, vì hay soi tướng của muôn loài. Có lúc gọi là Diệu Tâm, vì ư linh và tịch chiếu. Có lúc gọi là Chủ Nhơn  Ông, vì xưa nay từng gánh vác. Có lúc gọi là Đờn không dây, vì hiện nay ra điệu vận. Có lúc gọi là Vô tận đăng, vì hay chiếu phá mê tình. Có khi gọi là Cây không rễ, vì gốc rễ bền chắc. Có khi gọi là Xuy mao kiếm, vì hay chặt đứt căn trần. Có lúc gọi là Nước vô vi, vì sóng êm bể lặng. Có lúc gọi là Mâu ni châu, vì hay giúp đỡ người nghèo khó. Có lúc gọi là Vô nhu tỏa, vì cửa sáu tình đóng. Cho đến nào là trâu đất, ngựa gỗ, tâm nguyên, tâm ấn, tâm cảnh, tâm nguyệt, tâm châu v.v... nhiều tên khác nhau không thể ghi ra cho hết. Nết đạt được chơn tâm thì các tên đều hiểu cả. Bằng mê muội chơn tâm thì còn bị trệ nơi các tên. Cho nên đối với chơn tâm cần yếu nên xét kỹ.

Người xưa nói: “Gió động cây tâm lay, mây sanh tánh dấy bụi. Nếu sáng, rõ việc hôm nay. Nếu mê, mất người xưa nay”. Đấy là diệu thể khởi ra tác dụng vậy. Diệu thể của chơn tâm xưa nay chẳng động, yên tịnh chơn thường. Trên chơn thể diệu dụng hiện tiền, chẳng ngại mọi trường hợp đều được diệu. Cho nên trong bài tụng của Tổ Sư nói: “Tâm tùy muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật sâu xa, theo dòng nhận được tánh, không mừng cũng không lo”.

Cho nên trong tất cả thời, động dụng thi vi, đi đông đi tây, ăn cơm mặc áo v.v. đều là diệu dụng hiện tiền. Trái lại kẻ phàm phu mê lầm, khi mặc áo chỉ biết mặc áo, khi ăn cơm chỉ biết ăn cơm, tất cả sự nghiệp chỉ tùy tướng mà chuyển. Bởi dùng hằng ngày mà chẳng biết, ở trước mắt mà chẳng hay. Nếu người đuợc tánh thì động dụng thi vi chẳng từng mê. Cho nên Tổ Sư nói: “Trong thai gọi là thân, ở đời gọi là người, ở mắt thì thấy, ở tai thì nghe, ở mũi thì ngữi mùi, ở miệng thì đàm luận, ở tay thì nắm bắt, ở chân thì chạy nhảy. Khi biến hiện thì cùng khắp pháp giới, thu nhiếp lại thì chỉ trong hạt bụi. Người biết cho đó là Phật tánh, người chẳng biết gọi là tinh hồn”.

Thế nên Đạo Ngô múa hốt, Thạch Củng dương cung, Bí Ma đập nạn, Câu Chi dơ ngón tay, Hân Châu đánh đất, Vân Nham sư tử. Đấy là phát minh ra những đại dụng lớn vậy. Nếu việc hằng ngày chẳng mê thì tự nhiên tung hoành tự tại.

Thể dụng bất nhị:

Ngay nơi thể là dụng, ngay nơi dụng là thể như Đức Lục tổ Huệ Năng nói: Định (thể) tức huệ (dụng), huệ tức định, như đèn là thể, ánh sáng là dụng. Cây đèn và ánh sáng không thể tách rời. Cũng vậy Định huệ đồng đẳng hay Thể dụng bất nhị.

Từ thể Chân không hiển bày cái dụng: Không tức trống rỗng, trống rỗng tức không, ấy là cái dụng; có rỗng không chúng ta mới có thể ngồi tại đây, như cái bàn này, nếu chẳng có không (trống rỗng) thì chẳng thể sử dụng, cái tách chẳng có cái không thì chẳng thể đựng nước đựng trà v.v… Nên phàm nói đến cái không là để hiển bày cái dụng, muốn dụng ắt phải có cái không, chẳng có cái không thì chẳng thể sử dụng được. Cái không lớn chừng nào thì sử dụng phát huy lớn chừng nấy.

Dụng của tự tánh cũng vậy, sở dĩ mình sử dụng chẳng được là do các thứ tham, sân, si, phiền não che lấp cái không, nay tu Thiền dùng trí Bát nhã buông bỏ được bao nhiêu thì cái không hiển bày được bấy nhiêu, tự động hiện ra. Không tới cực thì dụng tới cực, tức là Phật.

Trước mắt dùng chưa được, chỉ có thể tạm gọi là “Tiềm năng”, tức tiềm trong tự tánh, đợi khi nào trống không rồi thì tự hiện ra cái dụng, như thế mới có thể gọi là chân không, cũng gọi là diệu hữu (Bởi vì nếu không phát huy sử dụng được thì chẳng thể gọi là diệu hữu).

Tức không tức dụng, tức dụng tức không, chơn không diệu hữu đồng thời. Diệu hữu là dụng, Chơn không là thể, thể với dụng đồng thời, cũng như Chơn Không tức Thường Chiếu, Thường Chiếu tức Chơn Không, không có phân chia, ấy mới đúng với nghĩa “Tự tánh bất nhị”. Nếu chia ra thể và dụng tức đã thành hai, vì để giải thích nên mới nói thành hai vậy.

Tin mới

Các tin khác

[ Quay lại ]