Trung Luận - PHẨM PHÁ NHÂN DUYÊN

  Chẳng sanh cũng chẳng diệt,
  Chẳng thường cũng chẳng đoạn.
  Chẳng một cũng chẳng khác,
  Chẳng lại cũng chẳng ra.
  Hay nói nhân duyên ấy,
  Khéo dứt mọi hý luận.
  Con cúi đầu lễ Phật,
  Bậc nhất trong các thuyết.

Hỏi: - Vì sao tạo ra bộ luận này?

Đáp: - Có người nói muôn vật từ trời Đại Tự Tại sanh.

Có người nói từ trời Vi Nữu sanh.
Có người nói từ hoà hợp sanh.
Có người nói từ thời sanh.
Có người nói từ thế tánh sanh.
Có người nói từ biến hoá sanh.
Có người nói từ tự nhiên sanh.
Có người nói từ vi trần sanh.

Bởi có những sai lầm như thế, rơi vào các thứ tà kiến không nhân, tà nhân, đoạn thường v..v.. lần lượt nói về ngã và ngã sở, chẳng rõ biết chánh pháp; Phật muốn dứt những thứ tà kiến như trên, khiến biết Phật pháp nên trước nói ở trong pháp Thanh Văn nói mười hai nhân duyên; rồi vì người đã tu hàønh, có tâm to tát, kham nhận được pháp sâu xa, mới đem pháp Đại thừa nói về mười hai tướng nhân duyên. Nghĩa là tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng một chẳng khác … rốt ráo không, không một vật. Như trong Bát Nhã Ba La Mật nói: “Phật bảo ngài Tu-bồ-đề: -Bồ tát khi ngồi đạo tràng, quán mười hai nhân duyên như hư không, không thể hết. Sau khi Phật diệt độ khoảng trăm năm, ở trong thời tượng pháp căn cơ của người càng chậm lụt, chấp trước sâu nơi các pháp, mong tìm tướng quyết định của mười hai nhân duyên, năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới… Họ chẳng rõ biết ý Phật, chỉ kẹt nơi văn tự, rồi nghe trong pháp Đại thừa nói rốt ráo không, mà chẳng biết nhân duyên gì nên Không, liền sanh kiến chấp nghi ngờ: Nếu thảy đều rốt ráo không, thì làm sao phân biệt có tội phước, báo ứng … như vậy ắt kông có thế đế, đệ nhất nghĩa đế”. Chấp lấy tướng không đó mà dấy lên tham trước, ở trong rốt ráo không sanh nhiều thứ lỗi lầm; vì những lý do đó, Bồ tát Long Thọ tạo ra bộ luận này.

Chẳng sanh cũng chẳng diệt,
Chẳng thường cũng chẳng đoạn.
Chẳng một cũng chẳng khác,
Chẳng lại (đến) cũng chẳng ra (đi).
Hay nói nhân duyên ấy,
Khéo dứt mọi hý luận
Con cúi đầu lễ Phật,
Bậc nhất trong các thuyết.

Dùng hai bài kệ này tán thán Phật xong, cũng chính lược nói nghĩa đệ nhất rồi.

Hỏi: - Các pháp vô lượng, vì sao chỉ dùng tám việc trên đây để phá?

Đáp: - Tuy pháp có vô lượng nhưng lược nói tám việc trên chính là gồm phá tất cả pháp.

Chẳng sanh, nghĩa là luận sư có nhiều thứ thuyết nói về tướng sanh: hoặc có thuyết cho nhân quả là một, hoặc có thuyết cho nhân quả là khác, hoặc có thuyết cho trong nhân trước có quả, hoặc có thuyết cho trong nhân trước không quả, hoặc có thuyết cho tự thể sanh, hoặc có thuyết cho cái khác sanh (tha sanh), hoặc có thuyết cho chung lại sanh, hoặc có thuyết cho có sanh, hoặc có thuyết cho không có sanh …, những thuyết nói về tướng sanh như thế đều chẳng đúng. Việc này sau sẽ nói rộng. Vì tướng sanh quyết định chẳng thể được nên chẳng sanh.

Chẳng diệt là, nếu không sanh thì đâu có thể diệt. Vì không sanh không diệt nên sáu việc còn lại cũng không.

Hỏi: - Chẳng sanh chẳng diệt đã gồm phá tất cả pháp, cớ sao còn nói sáu việc nữa?

Đáp: - Vì làm thành nghĩa chẳng sanh chẳng diệt. Có người chẳng nhận chẳng sanh chẳng diệt mà tin chẳng thường chẳng đoạn; nếu tìm sâu nghĩa chẳng thường chẳng đoạn tức là chẳng sanh chẳng diệt. Tại sao? Nếu pháp thật có thì chẳng nên không; trước có nay không, đó là đoạn; nếu trước có tánh, đó là thường; vì vậy nói chẳng thường chẳng đoạn tức vào nghĩa chẳng sanh chẳng diệt.

Có người tuy nghe bốn trường hợp phá các pháp, vẫn còn lấy bốn môn kế làm thành các pháp, điều đó cũng chẳng đúng. Nếu là một thì không có duyên; nếu khác thì không tiếp nối; sau đây sẽ lần lượt phá, vì vậy lại nói thêm chẳng một chẳng khác.

Có người tuy nghe sáu trường hợp phá các pháp, vẫn còn lấy lại và ra (đến, đi) làm thành các pháp. Lại là nói các pháp từ trời Tự Tại, thế tánh vi trần … lại. Ra là đi trở về đến chỗ cũ.

Lại nữa, muôn vật không sanh.Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy hạt lúa ban đầu (kiếp sợ) chẳng sanh. Tại sao? Vì lìa hạt lúa ban đầu, hạt lúa hiện nay không thể được. Nếu lìa hạt lúa ban đầu, có hạt lúa hiện nay thì nên có sanh; mà thật chẳng vậy, thế nên chẳng sanh.

Hỏi: - Nếu chẳng sanh thì lý đáng là diệt?

Đáp: - Chẳng diệt. Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy hạt lúa ban đầu chẳng diệt; nếu diệt thì hiện nay chẳng nên có hạt lúa; mà thật chẳng vậy, thế nên chẳng diệt.

Hỏi: - Nếu chẳng diệt thì lý đáng là thường?

Đáp: - Chẳng thường. Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy muôn vật chẳng thường. Như hạt lúa khi nảy mầm, hạt giống ắt biến hoại; thế nên chẳng thường.

Hỏi: - Nếu chẳng thường thì lý đáng là đoạn?

Đáp: - Chẳng đoạn. Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy muôn vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa có mầm, thế nên chẳng đoạn; nếu đoạn chẳng nên có tiếp nối.

Hỏi: - Nếu vậy, muôn vật là một?

Đáp: - Chẳng một. Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy muôn vật chẳng một. Như hạt lúa chẳng làm mầm, mầm chẳng làm hạt lúa. Nếu hạt lúa làm mầm, mầm làm hạt lúa thì lý đáng là một; mà thật chẳng vậy, thế nên chẳng một.

Hỏi: - Nếu chẳng một thì lý đáng là khác?

Đáp: - Chẳng khác. Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy muôn vật chẳng khác. Nếu khác thì cớ sao phân biệt là mầm lúa, cọng lúa, lá lúa, mà chẳng nói mầm cây, cọng cây, lá cây; thế nên chẳng khác.

Hỏi: - Nếu chẳng khác thì lý đáng có lại?

Đáp: - Không lại. Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy trong hạt lúa, mầm chẳng từ đâu lại; nếu lại thì lý đáng mầm từ nơi khác lại, như chim bay lại đậu trên cây; mà thật chẳng vậy, thế nên chẳng lại.

Hỏi: - Nếu chẳng lại thì lý đáng có ra?

Đáp: - Chẳng ra. Tại sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian mắt thấy muôn vật chẳng ra; nếu có ra, lý đáng thấy mầm từ hạt lúa đi ra, như rắn từ trong hang bò ra; mà thật chẳng vậy, thế nên chẳng ra.

Hỏi: - Tuy ông đã giải thích nghĩa chẳng sanh chẳng diệt, nhưng tôi muốn nghe những điều chính người tạo luận nói?

Đáp: - Các pháp chẳng tự sanh,
          Cũng chẳng tự tha sanh.
          Chẳng chung, chẳng không nhân,
          Thế nên biết không sanh.

Chẳng tự sanh là, muôn vật không có từ tự thể sanh, hẳn phải đợi các nhân duyên.

Lại nữa, nếu từ tự thể sanh thì một pháp có hai thể: Một là sanh. Hai là cái sanh.

Nếu lìa nhân khác, từ tự thể sanh thì, không nhân không duyên.

Lại, sanh rồi sanh nữa, sanh ắt vô cùng.

Vì tự không nên tha cũng không. Tại sao? Vì có tự nên có tha (cái khác). Nếu chẳng từ tự sanh, cũng chẳng từ tha sanh.

Chúng sanh thì có hai lỗi: vì vừa tự sanh vừa tha sanh.

Nếu không nhân mà có muôn vật thì đó là thường. Điều đó chẳng đúng. Không nhân ắt không quả; nếu không nhân mà có quả thì bố thí trì giới… lý đáng đọa địa ngục; làm mười điều ác, năm tội nghịch, lý đáng sẽ sanh lên cõi trời, do bởi không nhân.

            Lại nữa,

                        Như tự tánh các pháp,
                        Chẳng ở tại trong duyên.
                        Do bởi không tự tánh,
                        Tha tánh cũng lại không.

Tánh các pháp chẳng ở trong các duyên, chỉ do các duyên hoà hợp nên được tên. Tự tánh tức là tự thể. Trong các duyên không có tự tánh; vì tự tánh không nên chẳng tự sanh. Vì tự tánh không nên tha tánh cũng không. Tại sao? Vì nhân tự tánh có tha tánh, tha tánh đối với tha cũng là tự tánh. Nếu phá tự tánh, tức phá tha tánh. Vì vậy chẳng nên nói từ tha tánh sanh.

Nếu phá tự tánh, tha tánh tức phá nghĩa chung.

Không nhân thì có lỗi lớn: Có nhân còn có thể phá, huống nữa không nhân.

Ở trong bốn duyên, sanh chẳng thể được, thế nên chẳng sanh.

Hỏi: - Những nhà A Tỳ Đàm nói “các pháp từ bốn duyên sanh”, làm sai bảo chẳng sanh.

                Sao gọi là bốn duyên?
                Nhân duyên, thứ đệ duyên,
                Duyên duyên, tăng thượng duyên.
                Bốn duyên sanh các pháp,
                Trọn không duyên thứ năm.

Tất cả cái gì có duyên đều nhiếp thuộc ở bốn duyên. Do bốn duyên đó mà muôn vật được sanh. Nhân duyên gọi là tất cả pháp hữu vi. Thứ đệ duyên thì trừ tâm, tâm sở tối hậu của vị A la hán quá khứ và hiện tại, ngoài ra tức là tâm, tâm sở quá khứ, hiện tại. Duyên duyên, tăng thượng duyên là tất cả pháp.

Đáp: - Quả là từ duyên sanh ?
           Là từ phi duyên sanh ?
           Duyên ấy là có quả ?

Nếu bảo có quả, quả ấy là từ duyên sanh? Hay từ phi duyên sanh? Nếu bảo có duyên, duyên ấy là có quả? Hay không quả? Cả hai đều chẳng đúng. Tại sao?

             Nhân pháp ấy sanh quả,
             Pháp ấy gọi là duyên.
             Nếu quả ấy chưa sanh,
             Sao chẳng gọi phi duyên ?

Các duyên không quyết định. Tại sao? Nếu quả chưa sanh, lúc đó chẳng gọi là duyên, chỉ do mắt thấy từ duyên sanh quả nên gọi đó là duyên. Duyên thành do nơi quả; vì quả sau duyên trước cho nên nếu chưa có quả, đâu được gọi là duyên. Như bình do nước, đất hoà hợp nên có bình sanh. Vì thấy bình, nên biết nước, đất … là duyên của bình. Nếu khi bình chưa sanh, vì sao chẳng gọi nước, đất… là phi duyên. Thế nên quả chẳng từ duyên sanh; duyên còn chẳng sanh, huống nữa phi duyên.

            Lại nữa,

                    Quả trước ở trong duyên,
                    Có Không đều chẳng được.
                    Trước Không là duyên gì ?
                    Trước có đâu cần duyên ?

Trong duyên trước chẳng phải có quả, chẳng phải không quả. Nếu trước có quả thì chẳng gọi là duyên; vì quả trước đã có. Nếu trước không quả, cũng chẳng gọi là duyên vì chẳng sanh vật khác.

Hỏi: - Đã gồm phá tất cả nhân duyên, nay muốn nghe từng trường hợp phá các duyên?

Đáp: - Nếu quả chẳng có sanh,
          Cũng chẳng phải không sanh.
          Cũng chẳng có, không sanh,
          Đâu được nói có duyên ?

Nếu duyên hay sanh quả, lý đáng có ba trường hợp: hoặc có hoặc không, hoặc vừa có vừa không. Như trong bài kệ trước nói: Trong duyên nếu trước có quả, chẳng nên nói sanh; vì trước đã có. Nếu trước không quả, chẳng nên nói sanh; vì trước không có; vì duyên cùng không duyên đồng nhau. Vừa có vừa không cũng chẳng sanh; vừa có vừa không gọi là nửa có nửa không, cả hai đều có lỗi. Lại có cùng không trái nhau, không cùng có trái nhau, đâu được một pháp có hai tướng. Như thế cả ba trường hợp tìm tướng quả sanh chẳng thể được, làm sao nói có nhân duyên?
Thứ đệ duyên là:

                        Nếu khi quả chưa sanh,
                        Ắt chẳng nên có diệt.
                        Pháp diệt đâu hay duyên?
                        Nên không thứ đệ duyên.

Các tâm, tâm sở trong ba đời thứ lớp sanh. Tâm sở hiện tại diệt làm thế đế duyên cho vị lai. Pháp vị lai chưa sanh, làm thứ đệ duyên cho cái gì?

Nếu pháp vị lai đã có, tức đó là sanh, đâu cần thứ đệ duyên? Tâm, tâm sở hiện tại không có lúc nào dừng trụ, nếu chẳng dừng trụ, đâu hay làm thứ đệ duyên? Nếu có dừng trụ, ắt chẳng phải pháp hữu vi. Tại sao? Vì tất cả pháp hữu vi thường có tướng diệt. Nếu diệt rồi ắt chẳng thể cùng làm thứ đệ duyên.

Nếu nói pháp diệt vẫn có, ắt đó là thường. Nếu thường thì không có tội, phước…

Nếu bảo đang diệt hay cùng làm thứ đệ duyên; đang diệt là nửa diệt, nửa chưa diệt trọn không có pháp thứ ba gọi là đang diệt.

Lại Phật nói tất cả pháp hữu vi niệm niệm diệt, không có khoảng một niệm dừng trụ, làm sao nói pháp hiện tại có muốn diệt, sắp muốn diệt.

Ông cho rằng trong một niệm không có cái muốn diệt, chưa muốn diệt ấy, ắt tự phá pháp của mình. Trong thuyết A-tỳ-đàm của ông nói: có pháp diệt, có pháp chẳng diệt, có pháp muốn diệt, có pháp chẳng muốn diệt.

Pháp muốn diệt là, pháp hiện tại sắp muốn diệt.

Pháp chưa muốn diệt là, trừ pháp hiện tại sắp muốn diệt, còn lại là pháp hiện tại và pháp quá khứ, vị lai, vô vi. Đó gọi là pháp chẳng muốn diệt.

Thế nên không có thứ đệ duyên.

        Duyên duyên là:
                            Như chư Phật đã nói,
                            Pháp chân thật vi diệu.
                            Đối pháp không duyên này,
                            Làm sao có duyên duyên?

Phật nói các pháp Đại thừa hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có hình, không hình, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi… mọi pháp tướng ấy đều vào pháp tánh, tất cả đều Không, không tướng, không duyên. Ví như các dòng sông chảy vào biển đồng là một vị. Pháp thật mới đáng tin, còn tuỳ nghi nói ra, chẳng thể cho là thật. Thế nên Không duyên duyên.

        Tăng thượng duyên là:
                            Các pháp không tự tánh,
                            Nên không có tướng có.
                            Nói vì các này có,
                            Cái kia có, chẳng đúng.

Kinh nói mười hai nhân duyên, vì cái này có nên cái kia có, đều này ắt chẳng đúng. Tại sao? Vì các pháp từ các duyên sanh nên tự không có tánh cố định. Vì tự không có tánh cố định nên không có tướng có. Vì tướng Có Không có nên đâu được nói “ vì cái này có nên cái kia có”. Thế nên không tăng thượng duyên. Phật vì tuỳ theo phàm phu phân biệt có không nên nói về duyên.

                Lại nữa,

                            Trong nhân duyên rộng, lược,
                            Tìm quả chẳng thể được.
                            Trong nhân duyên nếu không.
                            Làm sao từ duyên ra?

Lược, là trong nhân duyên hoà hợp không quả. Rộng, là trong từng mỗi duyên cũng không quả. Nếu trong nhân duyên rộng, và lược không quả, làm sao nói quả từ nhân duyên ra?

            Lại nữa

                        Nếu bảo duyên không quả,
                        Mà quả, trong duyên ra.
                        Quả ấy sao chẳng từ,
                        Trong phi duyên mà ra?

Nếu trong nhân duyên tìm quả chẳng thể được, cớ sao quả ấy chẳng từ trong phi duyên mà ra? Như trong đất sét không bình, cớ sao bình chẳng từ trong sửa mà ra?

            Lại nữa
                        Nếu quả từ duyên sanh,
                        Duyên ấy không tự tánh.
                        Từ Không tự tánh sanh,
                        Đâu được từ duyên sanh?
                        Quả chẳng từ duyên sanh,
                        Chẳng từ phi duyên sanh
                        Do vì quả không có,
                        Duyên, phi duyên cũng không.

Quả từ các duyên sanh, duyên ấy không tự tánh. Nếu không tự tánh ắt không pháp, không pháp đâu thể sanh? Thế nên quả chẳng từ duyên sanh.

Chẳng từ phi duyên là, vì phá duyên nên nói phi duyên, thật ra không có pháp phi duyên. Thế nên chẳng từ phi duyên sanh.

Nếu chẳng từ cả hai trường hợp sanh, chính là không quả. Vì không quả nên duyên, phi duyên cũng không.

Tin mới

Các tin khác

[ Quay lại ]