TẮC 18: TRUNG QUỐC SƯ THÁP VÔ PHÙNG
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ ba, 06 Tháng một 2009 07:59
- Viết bởi nguyen
CÔNG ÁN: Hoàng đế Túc Tông hỏi Quốc sư Huệ Trung: Sau khi trăm tuổi có cần vật gì ? Quốc sư tâu: Vì Lão tăng xây cái tháp Vô Phùng. Vua hỏi: Xin Thầy cho kiểu tháp. Quốc sư im lặng giây lâu hỏi: Hiểu chăng ? Vua nói: Chẳng hiểu. Quốc sư tâu: Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này, xin vời đến hỏi. Sau khi Quốc sư tịch, vua vời Đam Nguyên hỏi ý này thế nào.
Đam Nguyên tâu: Phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm (Tuyết Đậu trước ngữ: Một tay vỗ chẳng kêu), ở giữa vàng ròng đầy một nước (Tuyết Đậu trước ngữ: Núi hình cây gậy), dưới cây không bóng nên đồng thuyền (Tuyết Đậu trước ngữ: Sông trong biển lặng), trên điện Lưu-ly không tri thức (Tuyết Đậu trước ngữ: Nêu rồi vậy).
GIẢI THÍCH: Túc Tông, Đại Tông đều là con cháu của Huyền Tông, khi còn làm Thái tử thích tham thiền. Vì nước có nhiều trộm cướp, Huyền Tông dời sang đất Thục. Cố đô nhà Đường ở Trường An, bị An Lộc Sơn chiếm cứ, sau dời đô sang Lạc Dương. Khi Túc Tông lên nhiếp chánh thì Quốc sư Huệ Trung đang trụ am trên núi Bạch Nhai thuộc Đặng Châu, nay là đạo tràng Hương Nghiêm. Quốc sư hơn bốn mươi năm không xuống núi, đạo hạnh đồn đến tai vua. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761), vua sai Trung sứ mời nhập nội, đãi theo lễ thầy trò rất là kính trọng. Quốc sư thường vì vua diễn nói đạo vô thượng. Mỗi khi Quốc sư thoái triều, vua tự vin xe đưa đi, quần thần đều tỏ vẻ bực bội, muốn tâu vua chỗ chẳng tiện đó. Quốc sư đủ tha tâm thông, khi thấy vua liền tâu: Tôi ở trước trời Đế Thích, thấy Thiên tử Túc Tán nhanh như làn điện chớp. Vua càng thêm kính trọng. Đến Đại Tông lên ngôi, lại mời Quốc sư ở chùa Quang Trạch mười sáu năm, tùy cơ nói pháp. Niên hiệu Đại Lịch thứ mười (775), Quốc sư thiên hóa. Hòa thượng Thanh Tỏa ở phủ Sơn Nam xưa là bạn đồng hành của Quốc sư, Quốc sư thường tâu vua mời về triều, vua mời ba phen mà không đến, lại mắng Quốc sư là đam danh ái lợi luyến trước nhân gian. Quốc sư làm Quốc sư đến ba triều đại, cha con nhà vua đều thích tham thiền. Cứ theo Truyền Đăng Lục khảo cứu thì câu hỏi này của Đại Tông hỏi. Câu hỏi Quốc sư: “Thế nào là mười thân Điều Ngự”, mới là của Túc Tông.
Quốc sư duyên hết sắp vào Niết-bàn từ giã Đại Tông. Đại Tông hỏi: “Quốc sư sau khi trăm tuổi có cần vật gì ?” Chỉ là một câu hỏi bình thường, mà ông già không gió nổi sóng, nói: “Vì Lão tăng xây cái tháp Vô Phùng.” Hãy nói bạch nhật thanh thiên làm như thế là sao ? Xây cái tháp là được rồi. Vì sao lại nói xây tháp Vô Phùng ? Đại Tông quả là tay tác gia cho ông một cái tát, liền hỏi: “Thỉnh Thầy cho kiểu tháp.” Quốc sư im lặng giây lâu nói: “Hiểu chăng ?” Kỳ quái, cái này thật khó tham cứu. Quốc sư bị vua một cái tát, liền miệng như tấm biển. Song tuy nhiên như thế, nếu chẳng phải là ông già này, cơ hồ té nhào rồi. Lắm người nói chỗ Quốc sư không nói chính là kiểu tháp. Nếu hiểu thế ấy, một tông Đạt-ma mất sạch. Nếu bảo im lặng là phải thì kẻ câm cũng hội Thiền. Há chẳng thấy ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời. Thế Tôn im lặng giây lâu. Ngoại đạo lễ bái khen ngợi: Thế Tôn đại từ đại bi vẹt đám mây mờ cho con, khiến con được vào. Khi ngoại đạo đi rồi, A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo có sở chứng gì mà nói được vào ? Thế Tôn đáp: Như con ngựa hay ở thế gian vừa thấy bóng roi liền chạy. Đa số người nhắm vào chỗ im lặng mà hiểu, thật có gì là phải. Ngũ Tổ tiên sư niêm rằng: “Mặt trước là trân châu mã não, mặt sau là mã não trân châu, bên Đông là Quán Âm, Thế Chí, bên Tây là Văn-thù, Phổ Hiền, khoảng giữa có cái phan bị gió thổi kêu hồ lô, hồ lô.” Quốc sư hỏi: Hiểu chăng ? Vua nói: Chẳng hiểu cũng được chút ít. Hãy nói cái chẳng hiểu này với cái chẳng biết của Võ Đế là đồng hay khác ? Tuy nhiên giống thì giống, mà phải thì chưa phải. Quốc sư nói: “Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này, xin vời đến hỏi.” Tuyết Đậu niêm: “Một tay vỗ chẳng kêu.” Đại Tông chẳng hiểu thì gác lại, Đam Nguyên lại hiểu chăng ? Chỉ tiêu được cái nói “Thỉnh Thầy kiểu tháp”. Mọi người trên quả đất cũng không làm sao được. Ngũ Tổ tiên sư niêm: “Ông là thầy một nước, vì sao chẳng nói lại đẩy qua đệ tử.” Sau khi Quốc sư thiên hóa, vua vời Đam Nguyên đến hỏi ý này thế nào. Đam Nguyên lại vì Quốc sư nói Hồ nói Hán, nói đạo lý, tự nhiên hiểu lời nói của Quốc sư. Chỉ tiêu một bài tụng: “Bên Nam sông Tương, bên Bắc cái đầm, khoảng giữa có vàng ròng đầy một nước, dưới cây không bóng nên đồng thuyền, trên điện Lưu-ly không tri thức.” Đam Nguyên tên Ứng Chơn làm thị giả Quốc sư, sau trụ chùa Đam Nguyên ở Kiết Châu.
Khi ấy, Ngưỡng Sơn đến tham vấn, Đam Nguyên nói: Trọng tánh ác không thể phạm, trụ chẳng được. Trước khi Ngưỡng Sơn đến tham vấn Đam Nguyên, có tham vấn Thiền sư Tánh Không. Có vị Tăng hỏi Tánh Không: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang ? Tánh Không đáp: Như người ở trong giếng sâu ngàn thước, chẳng nhờ một tấc dây mà kéo ra được, tức đáp ông ý Tây sang. Tăng thưa: Gần đây Hòa thượng Xướng ở Hồ Nam cũng vì người nói Đông nói Tây. Tánh Không bèn gọi: Sa-di ! Lôi cái tử thi này ra. Sau Ngưỡng Sơn đem hỏi Đam Nguyên: Thế nào là kéo người trong giếng ra được ? Đam Nguyên bảo: Dốt ! Kẻ si, ai ở trong giếng ? Ngưỡng Sơn chẳng khế hội. Sau đến Qui Sơn, Sư lại hỏi. Qui Sơn gọi: Huệ Tịch ! Sư ứng thanh: Dạ ! Qui Sơn bảo: Ra rồi. Ngưỡng Sơn liền đại ngộ, nói: Con ở chỗ Đam Nguyên được thể, chỗ Qui Sơn được dụng.
Chỉ một bài tụng này dẫn người khởi tà giải chẳng ít. Nhiều người hiểu lầm nói: Tương là tương kiến, đàm là đàm luận, khoảng giữa có cái tháp Vô Phùng, cho nên nói trong có vàng ròng đầy một nước. Vua cùng Quốc sư đối đáp là dưới cây không bóng nên đồng thuyền. Vua không hiểu nên nói: Trên điện Lưu-ly không tri thức. Lại có người nói: Tương là phía Nam Tương Châu, Đàm là phía Bắc Đàm Châu. Giữa có vàng ròng đầy một nước là tụng nhà quan. Liếc mắt nhìn xem nói, cái này là tháp Vô Phùng. Hiểu thế ấy, thật chẳng ra ngoài tình kiến. Đến như Tuyết Đậu hạ bốn chuyển ngữ lại làm sao hiểu ? Người nay toàn không hiểu ý cổ nhân. Thử nói phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm, ông làm sao hiểu ? Giữa có vàng ròng đầy một nước, ông làm sao hiểu ? Dưới cây không bóng nên đồng thuyền, ông làm sao hiểu ? Trên điện Lưu-ly không tri thức, ông làm sao hiểu ? Nếu thế ấy thấy được thật là thỏa mãn bình sanh. Phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm, Tuyết Đậu nói: Một tay vỗ chẳng kêu, bất đắc dĩ cùng ông nói. Giữa có vàng ròng đầy một nước, Tuyết Đậu nói: Núi hình giống cây gậy. Cổ nhân nói: Biết cây gậy, việc tham học một đời được xong. Dưới cây không bóng nên đồng thuyền, Tuyết Đậu nói: Sông trong biển lặng. Đồng thời mở hoác cửa nẻo, tám mặt linh lung. Trên điện Lưu-ly không tri thức, Tuyết Đậu nói: Niêm rồi vậy. Đồng thời vì ông nói xong vậy, quả là khó thấy, thấy được cũng tốt, chỉ là có chỗ nhận lầm, theo lời sanh hiểu. Đến rốt sau nói niêm rồi vậy, lại còn chút ít so sánh. Tuyết Đậu phân minh một lúc hạ ngữ xong. Đoạn sau riêng tụng cái tháp Vô Phùng.
TỤNG: Vô phùng tháp
Kiến hoàn nan
Trừng đàm bất hứa thương long bàn.
Tằng lạc lạc
Ảnh đoàn đoàn
Thiên cổ vạn cổ dữ nhân khan.
DỊCH: Tháp Vô Phùng
Càng khó thấy
Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn.
Từng lộng lẫy
Bóng tròn tròn
Ngàn xưa muôn xưa cho người xem.
GIẢI THÍCH: Tuyết Đậu ngay đầu nói: Tháp Vô Phùng, càng khó thấy. Tuy nhiên riêng bày chẳng giấu, song mà khi cần thấy lại khó thấy. Tuyết Đậu từ bi tột độ lại vì ông nói “đầm trong chẳng cho rồng to cuộn”. Ngũ Tổ tiên sư nói: Tuyết Đậu tụng cổ một tập, tôi chỉ thích câu “đầm trong chẳng cho rồng to cuộn”. Vẫn còn đôi chút so sánh. Nhiều người nhằm chỗ Quốc sư im lặng làm kế sống. Nếu hiểu thế ấy một lúc lầm rồi. Đâu chẳng nghe nói: Rồng nằm chẳng chọn nước đọng; chỗ không, có trăng sóng lặng; chỗ có, không gió dậy sóng. Lại nói: Rồng nằm hằng sợ đầm trong biếc. Nếu loại này, dù cho nước dậy mênh mông, sóng bủa ngập trời, cũng chẳng ở trong đó uốn khúc. Tuyết Đậu tụng đến đây đã xong. Phần sau thêm đôi phần nhãn mục tô đắp nên cái tháp Vô Phùng. Theo sau nói: Từng lộng lẫy, bóng tròn tròn, ngàn xưa muôn xưa cho người xem. Ông làm sao xem ? Hiện nay ở chỗ nào ? Dù cho ông thấy được rõ ràng, chớ lầm nhận trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định).