Bài Học từ Tổ Sư Pháp Loa
- Chi tiết
- Được đăng ngày Chủ Nhật, 15 Tháng mười 2017 13:29
- Viết bởi Super User
Thích Tâm Hạnh
I. MỘT VỊ THIỀN SƯ, CHÚNG TA HỌC HỎI NHƯ THẾ NÀO?
Nếu dòng Thiền Tào Khê ra đời từ Lục Tổ Huệ Năng vốn là một vị tiều phu không chữ, mạch nguồn này được phát huy khiến cho nhiều người biết đến dưới thời một đệ tử tài ba linh lợi là Thần Hội Đại Sư; thì Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam do một vị Vua anh minh, xuất gia tu hành giác ngộ sáng lập nên, rồi được củng cố, hoàn bị và phát triển mạnh mẽ dưới thời một đệ tử nối pháp là Thiền sư Pháp Loa, vốn xuất thân từ một thanh niên dân dã, ít học. Đây là điểm đặc biệt, hàm chứa một ý nghĩa vô cùng độc đáo và sâu sắc của thiền phong. Tâm mình còn chút tình mê, chưa rời tình thức; còn kẹt hai bên, chưa suốt thông đại đạo, chưa tỏ ngộ tự tâm thì khó bề thấu tột.
Nếu đã suốt thông thì không còn nói đến việc học. Còn chưa thông suốt thì học cũng không thể đến được chỗ tột cùng này. Vậy phải học hỏi Tổ sư Pháp Loa như thế nào? Không thể tìm hiểu nghĩa lý trên ngôn ngữ hay hành động mà cho là đã học được. Nhưng nếu khéo học, cũng ngay một câu, một chữ hay bất kỳ hành động nào cũng có thể bất ngờ nhận ra. Mới hay, mười phương chư Phật, nhiều đời Tổ sư chưa rời trước mắt. Thật cảm kích và sống động khi học về một Thiền sư!
II. BÀI HỌC TỪ TỔ SƯ PHÁP LOA:
1. Không thích ăn thịt cá, không nói lời ác:
Nếu là người từng ăn chay vào những ngày Rằm hay mùng Một đã nhiều năm thành thói quen. Tình cờ sáng Rằm nào đó bận việc, bị quên và nhỡ ăn chút đồ mặn. Lát sau nhớ ra thì lòng cảm thấy hổ thẹn, đi lấy nước súc miệng và tiếp tục ăn chay vào các bữa sau đó. Hoặc có vị phát tâm ăn trường chay hơn một năm, sau đó nghe mùi cá thịt thì bị buồn nôn, không chịu được. Hay khi còn ăn cá thịt thì cắt cổ nhổ lông súc vật cảm thấy cũng thường. Nhưng người ăn chay được thời gian rồi, thình lình thấy ai cắt cổ gà vịt thì trong lòng cảm thấy rợn người, khó chịu. Đó là những dấu hiệu cho thấy thiện pháp đã phát sinh trong người ăn chay, khi thấy pháp ác thì không chấp nhận được.
Tổ Pháp Loa khi mới sinh ra thiên tư đã đĩnh ngộ, không thích ăn cá thịt, không nói lời ác. Mới thấy được căn lành của Ngài thật sâu dày do nhiều kiếp đã được huân tu. Chúng ta muốn có được căn lành như Tổ thì ngay từ bây giờ phải sống tốt, siêng năng tu hành các thiện pháp, thiền định chuyên tâm. Nhiều kiếp hay một đời đều do chính mình tự làm, tự tu tạo, không ai làm thế cho mình được. Nếu kiếp trước chưa làm thì đời này chúng ta bắt đầu làm.
2. Tích cực làm nhiều Phật sự:
Năm 24 tuổi Ngài đã ngộ đạo, được truyền y bát và tâm kệ, kế thế Tổ vị thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đến 25 tuổi Ngài lãnh đạo Giáo Hội, làm chủ Sơn môn Yên Tử. Trong khoảng 20 năm, Ngài đã làm được rất nhiều Phật sự. Độ Tăng Ni hơn 15.000 người. Phật tử được độ thì không thể đếm hết. Khắc bản, in Đại Tạng Kinh. Xây chùa, đắp tượng… Với chân lý siêu việt của thiền thì Ngài đã ngộ được. Với công việc hiện đời thì Ngài đã tùy duyên làm nên nhiều Phật sự vĩ đại. Lý sự viên dung. Đúng với câu Thiền sư Qui Sơn Linh Hựu đã dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần. Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.” Không dính mắc nhưng không phải ở không. Làm rất nhiều mà không phải dính mắc. Điều này chúng ta thấy rõ qua công hạnh tu khổ hạnh của Ngài. Nhà vua tặng thuyền để đi lại mà Ngài không nhận. Số tịnh tài tịnh vật quyên cúng quá nhiều thì Ngài giảm bớt. Nếu chỉ tìm hiểu trên những nghĩa lý này thì khó học hết được công hạnh “lý sự dung thông” này của Tổ. Học đòi cạn cợt theo bên ngoài thì dù nhiều hay ít, ai cũng có phần. Nhưng để học đến được chỗ cốt tủy của Ngài thì không phải dễ dàng như mọi người vẫn nghĩ. Thử hỏi, Tổ Pháp Loa có tâm mà làm hay không tâm để làm các Phật sự? Nếu có tâm thì còn tạo tác, rơi vào sanh diệt, không được gọi là Tổ. Nếu không tâm, tâm không sanh khởi thì lấy gì để làm? Hãy nói, Tổ Đạt Ma đến Thiếu Thất ngồi xoay mặt vào vách mấy năm? Cứ mở sách ra tìm đọc lại lịch sử hay nhớ nghĩ những gì đã học được để trả lời thì Tổ đã về Tây mất rồi! Hiện nay, ai là người thấy được? Hãy chính chắn ngẫm nghĩ cho thật kỹ. Coi chừng lầm!
3. Tính kế thừa và phát triển:
Nhắc đến Thiền sư Pháp Loa là nhớ đến công hạnh kế thừa, làm cho Tổ đạo được hưng thạnh. Thiền phái Trúc Lâm Yên tử dưới thời Tổ Pháp Loa được phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Cụ thể Tổ đã biên tập và giảng giải Ngữ Lục, khắc bản Kinh tạng, định chức và lập sổ bộ cho Tăng đồ, độ nhiều người xuất gia và tại gia… làm cho dòng thiền Việt Nam lúc bấy giờ phát triển tột đỉnh.
Như vậy, chúng ta học tinh thần kế thừa và phát triển của Thiền sư Pháp Loa như thế nào? Có phải làm theo giống như những gì Tổ đã làm như vừa kể trên hay không? Nếu như thế thì chỉ mới đi theo, chưa biết cách học cho nên không thể học được đúng với những gì Tổ sư đã làm.
Ở thế gian, nếu chúng ta học theo đuôi một vấn đề gì thì chỉ được gọi là bắt chước, học lóm, không nắm hết vấn đề, không thể sáng tạo. Cách học này không mang lại hiệu quả tốt nhất. Nếu người biết cách rèn trí thì sẽ khác. Mọi thứ trên đời đều từ trí tuệ con người mà hình thành, có ra. Căn cứ trên trí tuệ làm căn bản, những gì đã có chúng ta kế thừa, phát huy và làm tốt hơn, đó là tái tạo; những gì chưa có, nhờ vào trí tuệ chúng ta sẽ làm mới, sáng tạo. Tái tạo và sáng tạo là dựa trên nền tảng của trí tuệ để phát huy chứ không phải học theo, nô lệ kiến thức. Đó là người biết cách học, biết kế thừa và phát huy.
Tính kế thừa và phát huy ở Tổ Pháp Loa cũng tương tự. Chúng ta phải nhận ra rằng, tất cả những việc làm Phật sự của Ngài đều dựa trên trí giác Tổ đã đạt được. Trên cơ sở trí giác đó, Tổ tùy thuận vào những gì hiện tại cần làm để đưa mọi người trở về nhận ra và sống được bằng trí giác, để được hết khổ, an vui. Đó là tính kế thừa và phát huy Tổ đạo của Thiền sư Pháp Loa. Đây cũng chính là tinh thần Tổ Bá Trượng đã chỉ dạy: “Thấy bằng thầy kém thầy nửa đức. Trí vượt hơn thầy mới kham truyền trao.” Trí gì vượt hơn chỗ thấy nào? Đã về trong tuệ giác chân thật kia, vốn tự không sai khác, không có hơn và kém. Phải thấu tột được tuệ giác để có cái nhìn, có cơ sống suốt qua hình thức ngôn ngữ chỉ dạy của vị thầy, nhận chân và sống được với điều cốt lõi chính yếu của vị thầy muốn chỉ dạy, mới kham nhận lãnh và gánh vác việc của Thầy Tổ.
Từ trí giác làm căn bản, nhận biết nên làm gì để đưa mọi người trở về với trí giác mà mình đã cảm nhận được, cho người người đều được lạc an. Tính kế thừa và phát huy đúng nghĩa này không có nghĩa là thiếu vắng trí tuệ, nhất nhất phải rập khuôn. Như thế mới biết cách học tính kế thừa của Tổ.
4. Bài học về cội nguồn trí tuệ chân thật của một con người:
Thiền phái Trúc Lâm do Phật Hoàng Trần Nhân tông sáng lập. Dưới đức Sơ Tổ Trúc Lâm có hai đệ tử được truyền thừa kế thế Tổ vị. Một vị dân dã ít học là Thiền sư Pháp Loa. Một vị học thức uyên thâm, thi đỗ tiến sĩ, làm quan, xuất gia tu hành và sau này được Tổ Pháp Loa trao truyền Tổ vị là Thiền sư Huyền Quang. Hai Ngài xuất thân khác nhau và cùng làm Tổ, làm sao hiểu đây? Là người thành tựu trong đạo thì phải học nhiều hay ít học?
Hiện nay ở đời có nhiều người không đủ điều kiện để học Đại học, nhưng quý vị vẫn làm được nhiều việc thành công. Có không ít vị có học vị cao, nhưng lại không làm nên câu chuyện gì trong đời. Trên thực tế đó, nhiều người đã tự đặt ra cho mình suy nghĩ: “Có nhất thiết phải học Đại học hay không?” Đây là mệnh đề chưa có kết luận cuối cùng, nhưng cũng không thể bỏ qua.
“Nếu là một giáo sư có điều kiện, quý vị có cho con mình học Đại học hay không?” Rất nhiều người đồng chung một quan điểm: “Cứ cho học rồi hãy tính sau.” Đi rồi tính sau là người không rành rẽ lối đi, đi trong khủng hoảng. Học rồi tính sau là học mà không có định hướng, rồi sẽ thành gì? Nếu giả sử cứ cho việc học Đại học là đúng thì trong xã hội vẫn tồn tại một số người không cần học Đại học mà vẫn thành đạt. Vì thế, mệnh đề phải học Đại học là chưa thỏa mãn, chưa đủ lớn để trở thành một vấn đề chung cho tất cả mọi người. Có học là chưa thỏa mãn. Vậy không học thì sao?
Ông Thần Đèn không học, nhưng có khả năng di dời nhà cửa một cách phi thường. Mọi người không cấm, nhưng khuyên ông nên học thêm ngành kiến trúc để bổ túc cho việc làm của mình được tốt hơn. Khi học hiểu rồi, ông ta nhận ra việc làm trước kia của mình là quá mạo hiểm, không dám tiếp tục làm theo cách cũ nữa.
Có học chưa chắc đã làm nên việc lớn; không học thì hành động trong sự thiếu hiểu biết, nguy hiểm vô cùng. Học cũng không được, không học cũng không xong. Vậy phải làm sao? Nếu chúng ta không có được trí tuệ đặc biệt hơn, cứ ở trong việc học cùng chẳng học để kiếm tìm thì không tài nào tìm ra được phương hướng.
Học là ghi nhớ và hiểu được vấn đề, đó chỉ mới là kiến thức. Sau đó tư duy, tiêu hóa vấn đề được hiểu để nhận ra một vấn đề nào đó, đó chỉ mới là nhận thức hay tri thức. Kiến thức và nhận thức nó vẫn còn nằm trong đầu, chưa làm nên đồng tiền bát gạo là đúng. Người không được học nhiều mà có năng khiếu làm được một số việc đặc biệt, đó là nhờ vào trí tuệ vận dụng thực tiễn. Nếu có trí này mà thiếu kiến thức và nhận thức thì việc làm chưa thấu đáo và trọn vẹn. Nếu có kiến thức và nhận thức mà thiếu đi trí tuệ vận dụng thực tiễn và khả năng thích nghi thì chỉ là con chữ mà không có khả năng và bản lĩnh để làm nên điều gì đáng kể. Vậy thì tại sao chúng ta không biết vận dụng ba loại trí tuệ này để làm thành một hướng đi? Nếu chỉ nghe như thế và học theo thì chưa thể làm được. Muốn làm được điều này thì phải có một nguồn trí tuệ tổng, siêu vượt trên ba loại trí tuệ vừa nêu trên.
Ghi nhớ là kiến thức. Tư duy để nhận ra là nhận thức, tri thức. Trí tuệ không phải như thế. Học một hằng đẳng thức, một phép toán là để có kiến thức giải toán. Hiểu một bài toán thì mới chỉ có được sự nhận biết để giải bài toán. Khéo vận dụng những điều đã được học hiểu để giải một bài toán, từ bài toán đó giúp cho trí mình phát triển thêm. Đó chỉ mới là tầm của học trò rèn được trí tuệ của thế gian, chưa có trí tuệ của một giáo sư ra toán. Muốn làm tốt điều này thì bắt buộc chúng ta phải có nguồn trí tổng vượt trên những tri thức của một học trò và giáo sư. Học hiểu ở cuộc đời còn khó như thế, huống nữa là học hỏi nơi một vị có trí tuệ siêu xuất vượt trên thế gian! Làm sao dám chủ quan bằng vào trí tuệ còn vọng động của mình để tìm hiểu một cách hời hợt rồi vội kết luận về một vị Tổ sư?
Khi cõi lòng yên lắng thì chúng ta an nhiên, thấy ra nhiều điều hơn là khi bận rộn. Hóa ra, khi tâm lặng thì trí tuệ sáng ra. Tâm lặng mà sáng, đó là trí tuệ Thiền. Trí Thiền là trí gốc, là trí tổng. Trở về với trí gốc này thì trí tuệ của mỗi người sẽ được phát huy đúng mức của nó. Trở về trí này thì đều sáng suốt bình đẳng như nhau cho nên người ngu kẻ trí đều được sáng suốt. Trí này không phải do học hiểu mà phải khéo nhận lại cho nên không nằm trong giới hạn của người trí kẻ ngu, có học hay không học. Tổ Pháp Loa có phát tích từ một dân dã ít học hay Tổ Huyền Quang vốn là một vị tiến sĩ uyên thâm, khi giác ngộ tự tâm, nhận chân nguồn trí chân thật này rồi thì việc học nhiều hay ít học trước kia hoàn toàn không dính dáng. Chỉ sợ mình không thành Phật, chứ không có vị Phật nào thiếu trí tuệ cả. Là người khéo học, phải trên cơ sở thấu hiểu để khéo tu tập, nhận lại nguồn trí của chính mình thì mới biết cách học thấu tột đến chỗ mà chư Phật và chư Tổ muốn chỉ.
Như khi chúng ta đang đọc bài này, mình thì có hiểu; nhưng trang giấy đang chứa đầy những chữ nghĩa kia, chính bản thân nó không hiểu biết gì. Bởi chúng ta có khả năng hiểu mà tờ giấy thì không có khả năng ấy. Có nghĩa, khi muốn hiểu những điều này, chúng ta đã có khả năng hiểu của mình trước. Khả năng ấy chính là nguồn trí, là trí gốc. Con người ta phần đông chỉ hiểu theo mọi thứ bên ngoài mà không nhận ra nguồn trí này cho nên bị con chữ và ý nghĩa bên ngoài che đậy nguồn sáng của trí tuệ gốc. Nếu chỉ dừng ngang việc học hiểu mà không biết vận dụng, phát huy; hệ quả sẽ cho chúng ta thấy những phát minh dùng được thường đến nhiều từ những nông dân bình thường mà ít thấy đến từ những người có học vị.
Nếu nhận ra trí gốc, chúng ta sẽ biết đối với ai, lúc nào nên dạy kiến thức, nhận thức và bao giờ thì có cách cho con người tự nhận ra trí tuệ vận dụng thực tiễn như thế nào. Được vậy thì việc học không những không có lỗi gì mà còn là một sự cần thiết.
5. Từ cách quy tịch của Tổ:
Năm Đại Khánh thứ 4 (1317), Ngài bệnh nặng, đã đem y của Sơ Tổ và viết tâm kệ trao cho ngài Huyền Quang. Các pháp khí và gậy, phất tử, gậy tre, pháp thơ, pháp cụ, linh vàng, sử vàng… lần lượt trao cho mỗi đại đệ tử. Mọi người chuẩn bị tinh thần trước sự ra đi của Ngài, nhưng Tổ lành bệnh, không thị tịch.
Đến năm Khai Hựu thứ 2 (1330), Tổ lại trở bệnh. Ngài Huyền Quang thưa hỏi, mỗi mỗi Tổ đều khai thông. Tổ bảo, đến trong chỗ kia, buông đi hay nắm lại thảy đều không can hệ dính dáng gì đến chân tánh mà Tổ đang sống. Chỉ là tùy chỗ tùy nơi, mỗi mỗi đều tiêu dao, tự tại (tùy xứ tát-bà-ha). Đến phút lâm chung, chúng ta càng thấy rõ hơn sức sống của Tổ. Không chỉ thế, đệ tử đòi để lại kệ, Tổ bảo đem giấy bút ra và ban kệ cho. Viết xong, Ngài ném bút và an nhiên thị tịch.
Thông thường khi nghe bàn đến một vị Tổ sư, chúng ta thường nghĩ đến cách ra đi của các Ngài như thế nào, có được tự tại hay không tự tại. Đức Phật nằm nghiêng bên phải an nhiên vào niết-bàn. Có nhiều vị Thiền sư ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Có vị thì khoanh tay hoặc chống gậy đứng mà tịch. Ngài Đặng Ẩn Phong nghe thế liền làm lạ hơn, tịch theo tư thế trồng chuối ngược. Vậy chúng ta nên chọn cách quy tịch nào thì mới được tự tại? Nếu nhằm trên hình tướng để thấy thì sự mê mờ của mình đã lộ ra rồi.
Tổ Qui Sơn Linh Hựu khi sắp thị tịch bảo sẽ làm con trâu dưới núi, bên hông có ghi năm chữ: “Qui Sơn Tăng Linh Hựu.” Thế thì nên gọi Qui Sơn là phải hay gọi con trâu là phải? Nếu còn mê mờ, kẹt tâm chấp tướng thì không thể thấu tột được chỗ này. Tại sao lại nhằm trên hình tướng để tìm thấy Phật Tổ?
Đức Phật dạy: “Nếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta. Người ấy hành đạo tà, Không thể thấy Như Lai.” Nghĩa là nếu nương vào, nhìn theo âm thanh sắc tướng để tìm thấy bậc giác ngộ thì đã bị sai lệch. Không thể thấy được quý Ngài. Cuối cùng, Tổ Pháp Loa viên tịch có được tự tại hay không, phải thị tịch trong tư thế nào mới được tự tại? Khó hiểu quá! Hãy sống và tinh tấn tu hành như quý Ngài đi thì sẽ thấu suốt.
6. Lời khai thị vô vàn quý báu:
Một hôm mở hội thuyết pháp, Tổ lên tòa và nói:
Đại chúng! Nếu nhắm thẳng vào đệ nhất nghĩa đế mà nói thì động niệm liền sai, mở miệng là lầm, làm sao mà xét, làm sao mà quán? Hôm nay căn cứ vào đầu thứ hai mà nói cũng không được thế ấy.
Tổ bèn nhìn hai bên rồi nói tiếp:
Trong đây có người nào đầy đủ con mắt lớn chăng? Nếu có, hai cặp chân mày chẳng cần vén lên. Bằng không, bần đạo chẳng khỏi miệng nói ba hoa, đề ra những điều hủ mục, đáp những lời tạp nhạp. Chỉ vì các ông nhồi thành một khối hỗn độn. Lắng nghe! Lắng nghe!
Qua lời mở đầu trên, chúng ta nắm được điều cốt tủy mà Tổ muốn chỉ dạy. Ngài nói, nếu nhắm thẳng vào chỗ cứu cánh chân thật thì chỗ này không thể nói, mở miệng liền sai, làm gì có quán, có xét! Nếu khéo vận dụng để nói thì cũng không thể nói tột đến chỗ chân thật kia được. Như Ngài Đạo Ngô Viên Trí bảo: “Nói tột cùng cũng chỉ nói được tám phần”. Vậy còn hai phần nữa ở đâu? Sờ lại lỗ mũi mình đi thì sẽ biết!
Nói xong, Tổ nhìn hai bên mà không có ai trình được chỗ Ngài muốn chỉ, buộc phải hỏi tiếp: “Trong đây có người nào đầy đủ con mắt lớn chăng? Nếu có, hai cặp chân mày chẳng cần vén lên.” Con mắt lớn là chỉ cho đại đạo, tức trí tuệ chân thật. Chân mày là chỉ cho phương tiện. Nếu ai có con mắt lớn, tức là nhận ra thể tánh chân thật thì trình xem. Nếu trình được thì Ngài sẽ xuống tòa, không cần phải vén chân mày, không cần phải lập bày phương tiện để nói ra nữa.
Vì không ai trình cho nên Tổ nói: “Bằng không, bần đạo chẳng khỏi miệng nói ba hoa, đề ra những điều hủ mục, đáp những lời tạp nhạp. Chỉ vì các ông nhồi thành một khối hỗn độn. Lắng nghe! Lắng nghe!”
Như vậy, chỗ cốt lõi chính yếu mà Tổ muốn chỉ là đệ nhất nghĩa đế, là con mắt lớn, là chỗ cứu cánh rốt ráo của Phật pháp, là đại đạo, là Phật tánh, chân tâm… chứ không phải những lời giảng nói và đối đáp sau này. Thấy được thì ngay đây liền thấy, không đợi Tổ thăng tòa. Chỗ này không nằm trong ngôn ngữ, không nhất thiết là phải đợi nói ra mới nhận cho nên không thể đỗ lỗi do Tổ thị tịch đã 687 năm không có ai chỉ. Do trong chúng không có người trình lên cho nên Tổ phải bất đắc dĩ nói ra những điều hủ mục, tạp nhạp, nhồi lại hỗn độn, không ra gì. Bởi những lời ấy sẽ thật sự là hủ mục, tạp nhạp và hỗn độn đến vô ích nếu chúng ta không nhận ra cốt tủy mà Tổ muốn chỉ cho tất cả mọi người. Ngay đây nếu khéo hay ra, sẽ thấy Tổ đang hiện diện mỉm cười rất hài lòng và mãn nguyện cho một đệ tử khéo học hỏi Ngài như thế!
III. KẾT LUẬN:
Học hỏi Tổ sư Pháp Loa, chúng ta phải biết ứng dụng lời Tổ chỉ dạy để thực hành, tỏ ngộ chỗ cốt tủy mà Tổ muốn chỉ, sẽ phá tung những điều còn uẩn áo trong này. Nếu chỉ nghiên tầm, kê cứu thì chỉ đọc học và hiểu được những gì trong sách sử đã in ấn và tìm trên những di sản còn sót lại mà thôi.
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, Huế.
21/02/ Đinh Dậu (18/03/2017)
Bài Tham Luận tham dự Hội thảo: “Đệ Nhị Tổ Thiền phái Trúc Lâm Pháp Loa với việc kế thừa và phát triển di sản Phật giáo Trúc Lâm.” Tại chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang vào ngày 29/3/2017 (02/3/ Đinh Dậu). Nhân 687 năm ngày Tổ sư viên tịch.