Ý CHỈ BẤT LẬP VĂN TỰ
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ năm, 10 Tháng mười hai 2009 14:03
- Viết bởi nguyen
I. THẾ NÀO LÀ BẤT LẬP VĂN TỰ
Song song với giáo ngoại biệt truyền, Thiền tông truyền dạy cho nhau là tông “bất lập văn tự.” Với ý nghĩa này Thiền tông có một sức sống vươn lên, khó nắm bắt, khiến nhiều người nghiên cứu đến thiền thì phải đâu đầu, bóp trán. Vương Thường Thị một hôm đến thiền viện hỏi ngài Lâm Tế:
- Cả tăng đường có xem kinh chăng?
Lâm Tế đáp:
- Chẳng xem kinh.
Hỏi:
- Có học thiền chăng?
Đáp:
- Chẳng học thiền.
Hỏi:
- Kinh cũng chẳng xem, thiền cũng không học, vậy cuối cùng làm gì?
Đáp:
- Thảy dạy họ làm Phật làm Tổ.
Như vậy dạy làm Phật làm Tổ là dạy cái gì mà kinh chẳng xem, thiền chẳng học? Nói thế có kiêu ngạo lắm không? Chính đây là chỗ khiến người đắm mắc chữ nghĩa khó chấp nhận nổi. Tuy nhiên ý nghĩa này cần phải chân thật thấu suốt, không thể lầm lẫn trở thành chê bai chánh pháp, nghiêng lệch vào đường ta, rất nguy hiểm!
- Ngôn ngữ văn tự là tướng vọng tưởng, chẳng phải thật nghĩa.
Đã có nói ra thành lời, có lập thành chữ nghĩa, là từ động niệm rồi kích động khí bên trong, đưa lên môi răng v.v… phát ra tiếng vang, sau đó ghi lại. Đây là tướng vọng tưởng, thuộc vô thường sanh diệt, là cái khuôn chết. Người lầm lẫn chấp chặt vào đó, phân tích chia chẻ, rốt cuộc chỉ đi theo vọng tưởng, không rời khỏi tâm phan duyên, làm sao đạt được thật nghĩa? Kinh Lăng Già, Phật bảo Bồ tát Đại Huệ: “ Thế nào là ngữ (lời nói)? Nghĩa là, lời nói do vọng tưởng hòa hợp, y nơi cổ họng, môi lưỡi, răng nướu, cằm má, nhân đó ta nói vọng tưởng tập khí sanh, đó gọi là ngữ. Đại Huệ thế nào là nghĩa? Nghĩa là, tất cả tướng vọng tưởng, đó gọi là nghĩa.” (Lăng Già Tâm Ấn 234-235) .
Trong đây “nghĩa” theo Phật nói là lìa tướng vọng tưởng, không phải cái bị duyên. Trong khi đó, lời nói là tướng vọng tưởng, và khi nói ra là có nghĩ tưởng mới nói, và nói thì hẳn là "nói về cái gì đó", chưa phải chính ngay nghĩa thật. Người nghe rồi theo đó mà khởi hiểu, cũng là hiểu về nó, cũng nằm trong khái niệm thôi. Bởi vậy, không phải có nói ra là có tánh thật, không phải cố định có ngôn ngữ mới thành tựu mọi sự nghiệp (1). Thực tế có những người câm, họ vẫn làm thành tựu sự nghiệp của thế gian, đôi khi còn trội hơn những người đã nói được. Kinh Duy Ma Cật nói trên nước Chúng Hương, chỗ Phật Hương Tích chỉ dùng mùi hương làm Phật sự. Kinh nói: “Lúc ấy ông Duy Ma Cật hỏi các Bồ tát ở Chúng Hương rằng:
- Đức Như Lai Hương Tích thuyết pháp bằng cách nào?
Các Bố tát ấy đáp:
- Đức Như Lai ở cõi chúng tôi chẳng thuyết pháp bằng văn tự. Ngài chỉ dùng các mùi thơm làm cho các trời và người được vào Luật hạnh. Bồ tát thì mỗi vị đều ngồi nơi cội cây thơm, ngửi mùi thơm vi diệu kia liền chứng được Tam muội "Nhất thiết đức tạng". Được Tam muội đó rồi thì bao nhiêu công đức của Bồ tát có, thảy đều đầy đủ hết. (Phẩm Phật Hương Tích).
Và tiếp theo ở phẩm Bồ Tát, Phật Thích Ca đã bảo A Nan: “Hoặc có cõi Phật dùng quang minh của Phật làm Phật sự. Có cõi dùng người biến hóa của Phật làm Phật sự. Có cõi dùng cây bồ đề làm Phật sự. Có cõi dùng cơm và đồ ăn làm Phật sự. Có cõi dùng vườn hoa, rừng cây, đền đài làm Phật sự.” Đây là dẫn chứng cho thấy thật nghĩa của Phật pháp không cố định ở trong ngôn ngữ, văn tự. Mọi thứ có lập bày ra đều chỉ là phương tiện thôi. Người học phải từ đó thấy lại nơi chính mình mới là yếu chỉ. Trong nhà thiền, các Thiền sư rất điêu luyện về những thủ thuật này. Các ngài hoặc chỉ giơ ngón tay, đưa đóm lửa, nhìn thẳng nhau cũng khiến người đọc tỏ ngộ chân lý thiền. Như Hòa thượng Đả Địa, ai đến hỏi đạo Sư cũng chỉ lấy cây gậy đập xuống đất, sau có người giấu gậy đi thì Sư chỉ hả miệng (2). Huệ An trả lời cho Thản Nhiên về tác dụng thầm kín bằng cách nhắm mắt, mở mắt cũng thành thuyết pháp (3).
Con người vốn lệ thuộc chữ nghĩa quá nhiều, tưởng chừng như ngoài chữ nghĩa là không còn gì nữa! Do đó phần nhiều người học Phật bị chết trên chữ nghĩa không thoát nổi. Chẳng hạn đã đặt thành chữ Phật rồi cứ bám vào đó tìm cầu, phân tích, coi đó thiêng liêng hơn cả con người. Pháp dung bị Tứ Tổ Đạo Tín vẽ chữ Phật lên chỗ ngồi ngồi kinh sợ. Tổ đánh thức Sư: "Ông còn có cái ấy.” Phật ở chữ đó sao?
Hoặc đặt thành chữ CHÂN NHƯ, PHẬT TÁNH, lại cũng bám vào mấy chữ đó mà đua nhau chú giải, luận bàn thế này thế nọ, khiến người học chứa đầy khái niệm trong đầu, cho đó là hiểu biết. Song chân như, Phật tánh ở những mớ chữ đó sao? Bởi vậy, Chu Kim Cang - sau này là Hòa thượng Đức Sơn, một Thiền sư nổi tiếng ngang hàng với ngài Lâm Tế, Sư vốn từ một pháp sư giảng kinh Kim Cang, khi được bà già bán bánh chỉ đến Long Đàm – Sùng Tín, qua việc đưa đèn thổi tắt liền tỏ ngộ. Sau khi tỏ ngộ, Sư đem bộ sớ giải kinh Kim Cang từng quý trọng, đi đâu cũng mang theo, chất trước pháp đường châm lửa đốt quách không tiếc và còn nói: “Tột cùng mọi thứ biện luận siêu huyền giống như sợi lông ném trong hư không, tột hết thảy các thứ trọng yếu ở đời in hệt một giọt nước gieo torng hồ to.” Trước kia thì Sư thấy nó quý như của báu, khó ai đụng tới được. Giờ đây mở mắt sáng tỏ mới thấy rõ, dù bao nhiêu lý luận cao siêu huyền diệu, bao nhiêu yếu chỉ quan trọng thế này thế nọ cũng thuộc sách vở bên ngoài, có dính dáng gì đến "ánh sáng chân thật đang hiện tiền " đây! Nghĩa là, huyền diệu, ý chỉ đó cũng chỉ là huyền chỉ, ý chỉ chết thôi. Do đó sau này khi Sư ra giáo hóa, thông cảm với cái bệnh của người mà mình từng trải qua, nên sư mới có những lời nói mạnh bạo để đánh thức, thúc đẩy cho người sống dậy giữa đám rừng chữ nghĩa khô khan kia. Như có lần Sư thượng đường bảo: " Này các ngài, lão Hồ chẳng phải Thánh, Phật là cục cứt của lão Hồ. Cần thiết các ngài biện rành tốt xấu, chớ mắc kẹt nhân ngã thì khỏi bị chư Thánh cột, bồ đề cột, giải thoát, thù thắng, danh ngôn, diệu nghĩa nhận chìm trói buộc. Vì sao? Vì một niệm vọng tâm chẳng sạch tức là sanh tử tiếp nối ".
Mới nghe qua chúng ta thấy Sư nói sao thô bạo quá! Song nghiệm kỹ, nghiệm sâu thì thấy rõ ý Sư rất là tha thiết với người. Chứ nhận cho Thánh, cho Phật là thân tướng ông già mấy chục ký người Ấn Độ, có sanh ra, có già nua, có chết đi đó sao? Như vậy là phỉ báng Phật rồi! Là cho Phật cũng thuộc về vô thường sanh diệt như ai! Thế thì sao gọi là Thánh? Sư bảo : “Phật là cục cức của lão Hồ” tức chữ Phật đó là danh từ gán cho lão Hồ đấy thôi, đâu phải chính Ngài! Sư muốn đánh thức cho người học Phật phải thấy rõ "cái gì là Phật kìa". Chớ chết trên cái chữ đó; cũng chớ theo đó mà mắc kẹt trên cái thấy nhân ngã, ta người, phân chia mình là phàm, kia là thánh, bị những sanh từ bồ đề, giải thoát nó cột, ở trên đó mà sanh hiểu, dù hiểu được cũng thuộc duyên sanh, đâu là bồ đề thật? Đây là ngài Đức Sơn muốn đưa người thẳng vào sức sống chân thật, thoát ra gông cùm xiềng xích của chữ nghĩa khô chết, tự cảm nhận thánh thiêng liêng nagy chính mình mới không phụ lòng Phật ra đời!
Thiền sư Hiểu Thuấn cũng từng nói lến ý này, Sư bảo: "Nghe nói hai chữ Phật pháp, sớm đã làm nhơ tai mắt của ta rồi. Mọi người chưa nhảy qua cửa Vân Cư (4) ,dưới gót chân khéo cho 30 gậy. Tuy nhiên như thế là hết sức vì chúng rồi ".
Tại sao hai chữ “Phật pháp” mà làm nhơ tai mắt ? Đó là nhắc người phải xoay lại mình, thấy chín chắn cái gì là Phật pháp thật, nên bảo: “Chưa nhảy qua cửa Vân Cư thì dưới gót chân khéo cho 30 gậy”, tức là hãy nhìn dưới gót chân mình mình chứ chạy tìm đi đâu khác! Chữ nghĩa không giải thích được chỗ này. Bởi thế Lục Tổ Huệ Năng hiện thân anh chàng tiều phu không biết chữ mà đạt đạo, được truyền y bát, kế thừa Tổ vị, nhằm đánh mạnh vào những tâm hồn còn đang giam mình trong chữ nghĩa hoặc hài lòng với trí thức vay mượn bên ngoài kia. Chính Lục Tổ từng bảo bà ni Vô Tận tạng khi bà đem kinh Niết bàn đến hỏi nghĩa rằng:
- Chữ thì tôi không biết, nhưng nghĩa thì cô cứ hỏi.
Bà ni nói:
- Chữ còn không biết, nghĩa làm sao hỏi?
Lục Tổ bảo:- Diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự?
Bà mới kinh ngạc đi báo cho mọi người biết là có bậc đạo sĩ đáng cúng dường.
Ban đầu bà ni vẫn theo chỗ hiểu thông thừơng của tri thức thế gian, không biết chữ thì làm sao hiểu được nghĩa, nói nghe quá trái tai. Không ngờ bị Tổ đâm thẳng cho một câu mới giật mình: “Diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.” Đây là điểm nhức nhối cho nhiều người học Phật, may là lời của Tổ! Quả thực, lý màu nhiệm không riêng của Phật Thích Ca thôi, mà của hết thảy chư Phật vốn ở ngay tâm người, đâu phải ở mấy đám chữ kia. Người sáng đạo là người sáng ngay tự tâm, đâu có thể tìm trong sách vỡ ngữ lục nào? Tâm sáng thì lý thông suốt, lẽ thật rõ ràng như thế. Song người quen sống theo chữ nghĩa khó chịu nổi. Vì thế một anh chàng nhà quê không biết chữ mà đạt đạo, lãnh y bát mang đi thì đa số người không thể chấp nhận được, phải đuổi theo giật lại thôi! Nhưng Tổ đâu phải ở cái y cái bát đó! Chính đây là điểm nhắc cho người tu Phật chân thật cần nghiệm kỹ!
- Những tiếng sấm im lặng.
Đối trong nhà Thiền, chỗ IM LẶNG lặng của Thiền sư là chỗ hết sức khó vượt qua, phần nhiều người học mắc kẹt trong đó. Tuy nhiên đây là những cái IM LẶNGl S6A1M SÉT CHẾT NGƯỜI, phải một phen từ trong đó sống dậy mới cảm thông chỗ nhiệm màu của Phật pháp quá sức suy nghĩ!
Có vị ngoại đạo đến gặp Phật và hỏi:
- Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời.
Thế Tôn im lặng giây lâu. Ngoại đạo tán thán:
- Thế Tôn đại từ đại bi vẹt mây mờ cho con khiến con được vào.
Ngoại đạo đi rồi, Tôn giả A Nan hỏi Phật:
- Ngoại đạo chứng được cái gì mà nói được vào?
Phật nói:
- Như ngựa hay ở đời, thấy bóng roi liền vọt.
Xem đấy, Thế Tôn chỉ im lặng mà ngoại đạo tán thán là đại từ đại bi vén mây mờ, vậy đại từ đại bi ở chỗ nào? Rõ ràng trong chỗ im lặng đó có “ý sâu”, không phải tâm thường qua suông. A Nan thắc mắc ngoại đạo nhận được cái gì trong đó mà nói được vào? Phật thố lộ: “Như ngựa hay thấy bóng roi liền vọt.” Đây là ngầm chỉ: im lặng đó, chỉ là bóng roi, người nhạy bén phải ngay đó liền vọt mới cảm được lợi ích vi diệu không thể nghĩ bàn. Cho nên trong chỗ im lặng đó, thật đầy đủ muôn ngàn diệu nghĩa diễn tả không hết. Ngoại đạo quả đúng là tâm cơ đến lúc chín muồi, đỡ cho Phật nhọc nhằn biết mấy! Trong khi đó, hiện giờ người người đợi roi quất trúng thật đau, vẫn còn chưa vọt! Tức nói mạnh nói chát tai mà chưa tỉnh! Tuy nhiên chớ nghe tán thán như thế mà bám vào chỗ yên lặng đó để tìm ngộ là lầm. Cho nên sau này Hòa thượng Thường đến tham vấn với ngài Pháp Nhãn, Pháp Nhãn dạy Thường khán câu này.
Một hôm Pháp Nhãn hỏi Sư:
- Ông khán nhân duyên gì?
Thường thưa:
- Nhân duyên ngoại đạo hỏi Phật.
Pháp Nhãn lại bảo:
- Thử thuật lại xem!
Thường vừa định mở miệng thuật lại, Pháp Nhãn bảo:
- Dừng! Dừng! Ông toan nhằm chỗ yên lặng lãnh hội ư?
Ngay đó Sư đại ngộ.
Nếu nghe nói ngoại đạo nhân Phật im lặng mà được đường vào, rồi cứ nhằm chỗ im lặng đó mà suy tìm, mà khởi hiểu là chết chìm không hay. Pháp Nhãn khéo giúp cho Hòa thượng Thường vượt qua ngôn ngữ văn tự, liền đó vọt ngay mới bắt theo kịp ngoại đạo kia, khiến chuyện cũ cả ngàn năm vẫn sáng ngời. Giờ đây, có ai nghe đến chỗ này mà biết “vọt” như thế chăng?
Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời, vậy cái gì nói đó?Ngay đây xin tạ lỗi với người xưa!
- Duy Ma Cật im lặng, Văn Thù tán thán. Phẩm Pháp Môn Không Hai, khi các Bồ tá nói xong, kế Bồ tát Văn thù nói:
- Theo ý tôi thì, đối tất cả Pháp không nói, không lời, không chỉ, không biết, lìa mọi hỏi đáp, đó là pháp môn không hai.
Xong ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật:
- Chúng tôi mỗi người đã tự nói xong, tới phiên ông hãy nói những gì là Bồ tát vào pháp môn không hai?
Khi đó ông Duy Ma Cật im lặng. Ngài Văn Thù liền khen ngợi:
- Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự, ngữ ngôn mới là chân thật vào pháp môn không hai.
Ồ! Cái im lặng của ông Duy Ma Cật cho đến ngày nay, qua bao nhiêu nhà giải thích nhưng vẫn không chỉ ra được hết. Phải nói, chính đây là chỗ tri ân gặp nhau: Ông Duy Ma Cật im lặng, phải có Bồ tát Văn Thù khen ngợi mới thành vi diệu, mới vang đến tận ngày nay; nếu không nó đã bị im lìm quên lãng theo thời gian mất rồi! Song Bồ tát Văn Thù thấy gì trong đó mà khen ngợi? Hẳn là trong chỗ im lặng đó, vốn vang như sấm. Ngay đây có ai chợt nghe được “tiếng sấm im lặng” này chăng? Nếu chỉ dừng ngay chỗ im lặng đó để hiểu, là dễ chết trong chỗ lờ mờ, tối tăm. Vì im lặng cũng là đối với nói năng, vẫn y nguyên là tướng sanh diệt, có gì mà khen ngợi? Quả là, trong chỗ im lặng đó, có con mắt của ngài Văn Thù trong ấy. Im lặng mà sáng gnời, ngôn ngữ làm sao nói hết? Cần vượt qua chỗ im lặng này, thì thấu rõ ý chỉ “bất lập văn tự sáng như ban ngày!
-Phó Đại Sĩ giảng kinh Kim Cang. Một hôm Lương Võ Đế thỉnh Phó Đại Sĩ vào cung giảng kinh Kim Cang. Đại sĩ lên tòa ngồi, vỗ xuống bàn một cái, rồi bứơc xuống tòa. Võ Đế ngạc nhiên, Hòa thượng Chí Công hỏi:
- Bệ hạ có lãnh hội chăng?
Vua đáp:
- Chẳng lãnh hội.
Chí Công bảo:
- Đại Sĩ đã giảng kinh xong.
Dễ hiểu chăng? Đại Sĩ giảng kinh ở chỗ nào mà Chí Công bảo giảng xong? Chính ngay chỗ mọi người chẳng suy nghĩ đến, chẳng hiểu đến, đó là gì? Chớ vội lầm qua chỗ này! Nếu cứ giảng kinh Kim Cang Bát Nhã là trí tuệ sắc bén như kim cương hay phá vỡ tất cả vô minh, tình chấp ngã… thì có phải là Kim Cang Bát Nhã chưa? Ở đây cần thấy, ngay chỗ vua Lươgn chẳng hiểu gì đó, là gì ? Cái gì biết chẳng hiểu? Kim Cang Bát Nhã sẵn ngay đó thôi. Đây là thay cho cái im lặng bằng cái vỗ bàn, đưa người vượt thẳng qua ngôn ngữ, văn tự bên ngoài.
- Nơi Bá Trượng . Có vị tăng đến hỏi Sư:
- Thế nào là Phật?
Sư bảo:
- Ông là ai?
Tăng thưa:
- Là con.
Sư hỏi:
- Ông có biết chăng?
Tăng thưa:
- Con biết rõ ràng.
Sư đưa cây phất tử lên hỏi:
- Ông thấy chăng?
Tăng thưa:
- Dạ thấy.
Sư im lặng.
Ồ! Ai phá tan được cái im lặng này? Tại sao đến đó sư chỉ im lặng, là có trả lời thỏa đáng cho vị tăng không ? Kìa! Hỏi - đáp rõ ràng đó, đối diện biết rành rẽ, thấy nghe đầy đủ không chối cãi, vậy còn phải nói gì nữa đây? Ngay đó im lặng mà như một quả đấm trời giáng , một tiếng sấm vang chát tai, còn chưa tỉnh thì còn phải đợi đến bao giờ?
Đây này, Tuyết Phong tiễn Song Phong có câu: “Sấm dứt, tiếng chẳng dừng.“ Linh Vân Chí Cần nóii lại: Sấm vang, chẳng nghe tiếng.“ Tại sao sấm đã dứt mà tiếng chẳng dừng? Tiếng đĩ ở đâu? Làm sao nghe? Tại sao sấm vang lại chẳng nghe tiếng? Chẳng nghe, sao bảo là sấm vang? Chỗ này làm sao thấu được? Nếu người cịn kẹt ở tai mắt thì hẳn là khĩ thấu qua. Trong đây, phải thấy thấu qua hai trịng mắt này! Phải nghe thấu qua hai màng nhỉ này! Nghe đến khơng chỗ nghe thì nĩ nghe mãi không bao giờ dứt. Đến đây văn tự bám vào đâu để lập.
- Phải thấy ý ngoài lời.
Đến chỗ tột cùng là phải quên lời đạt ý, thấy thẳng trước khi mở miệng: Giáo ngoại biệt truyền cũng chính đó! Bật lập văn tự cũng chính đó!
Kìa! Trong hội Mã Tổ, Hoài Hải sau khi bị vặn mũi tỏ ngộ hôm sau Mã Tổ thượng đường xong, Sư ra cuốn chiếu, mã Tổ trở về phương trượng. Buổi thuyết pháp rất đơn giản, ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sau có vị tăng đem việc này ra hỏi Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn:
- Ý đó thế nào?
Thủ sơn đáp:
- Ao rồng vừa phất toàn thể hiện.
Trong đây, tại sao Mã Tổ mới thượng đường chưa nói gì, Hoài hải lại cuốn chiếu, có thô lỗ chăng? Bởi thượng đường tức là sắp nói pháp, nhưng đối với Hoài Hải, Sư đã thấu việc này vốn sẵn vậy rồi, khỏi phải đợi nói thêm! Tức Sư đã thấu qua trước, khi ngôn ngữ lập bày. Vì vậy Thủ Sơn đáp: Aùo rồng vừa phất thôi thì biết rõ vua đã hiện rồi!
- Đến Thiền sư Duy Nghiễm ở Dược Sơn. Lâu ngày Sư chẳng thăng đường nói pháp, Viện chủ thưa:
- Đại chúng lâu ngày nghĩ nhớ Hòa thượng chỉ dạy.
Sư bảo:
- Hãy đánh chuông đi!
Khi đánh chuông xong, chúng vừa nhóm họp, Sư liền xuống tòa trở về phương trượng. Viện chủ theo sau hỏi:
- Hòa thượng đã hứa vì chúng nói chuyện, vì sao chẳng nói một lời?
Sư bảo:
- Kinh có thầy giảng kinh, luận có thầy giảng luận, đâu trách được lão tăng.
Có lạ chăng? Dược Sơn đã hứa thượng đường, nhưng lên pháp tòa chúng nhóm họp xong liền xuống tòa, vậy đã nói cái gì?
Có phải ngầm bảo "việc ấy" mỗi người đã sẵn đủ còn đợi cái gì ? Nếu không có việc đó, sao mọi người biết đến nhóm họp đây? Đợi mở miệng ra e người dễ theo lời hiểu, là tự trái bỏ ý chính mình! Ý chỉ “bất lập văn tự” thật đã sáng ngời trong đó quá rồi!
Và kìa, Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là người chẳng cùng muôn pháp làm bạn?
Mã Tổ bảo:
- Đợi ông hớp một hớp cạn hết nước Tây Giang, ta sẽ nói cho ông.
Nước Tây Giang làm sao uống cạn trong một hớp? Nếu nghe nói uống, rồi nghĩ uống thì bao giờ uống cho xong? Đợi nói ra để hiểu, tức đã có bạn, là nước đầy tràn lên láng rồi, làm sao uống! Trong đây, dù nói hay cách mấy, cũng không bao giờ nói đến chỗ rốt ráo không bạn kia. Chỉ ngay đây hết chỗ duyên, tức liền sáng tỏ, khỏi phải nhiều lời.
- Dùng được văn tự một cách sáng tạo.
Nói “bất lập” không có nghĩa là bỏ hết ngôn ngữ, im lặng mãi suốt đời. Nếu hiểu như thế lại thành kẹt theo ngôn ngữ “bất lập”, vẫn y nguyên nằm trong lưới văn tự. Cần rõ, đây là muốn nhắc cho người học phải NHẢY qua văn tự , khi đã qua văn tự rồi, trở lại dùng văn tự một cách sáng tạo, không còn lầm lẫn. Đó mới thực là không kẹt văn tự. Còn nghe nói “chẳng lập” rồi dẹp bỏ hết, tức là đã chấp kẹt vào chữ nghĩa “chẳng lập”, thành ra rơi vào đoạn diệt, cũng thuộc hai bên đoạn thường. Hơn nữa, Lục Tổ đã nói trong phẩm Phó Chúc, kinh Pháp Bảo Đàn như sau: “Người chấp không sẽ có chế bai kinh, nói thẳng ‘chẳng dùng văn tự’.” Song đã nói thẳng chẳng dùng văn tự, người ấy cũng chẳng nên nói năng. Chỉ lời nói này, chính là tướng văn tự rồi! Lại bảo rằng nói thẳng chẳng lập văn tự , chính hai chữ chẳng lập cũng là văn tự, mà thấy người nói ra liền chê bai người ta, nói là dính mắc văn tự ".
Đây là Lục Tổ chích thẳng vào người nói suông mà không có thực sống. Miệng cứ nói chẳng dính mà tâm thì kẹt cứng. Đó là chính mình tự mâu thuẫn với mình, ló cái đuôi cho người thấy! Quả tang không phải là Thiền sư thứ thiệt.
Có luật sư Pháp Minh đến nói với Thiền sư Tuệ Hải:
- Các Thiền sư phần nhiều rơi vào không.
Thiền sư Tuệ Hải bảo:
- Trái lại, các giảng sư, pháp sư phần nhiều rơi vào không.
Pháp Minh hoảng sợ hỏi:
- Tại sao rơi vào không?
Tuệ Hải bảo:
- Kinh luận là giấy mực, văn tự. Giấy mực, văn tự đều là không (duyên hợp, không thật thể), dù là trên tiếng dựng lập danh cú, văn thân (câu nói, nghĩa lý) đâu chẳng phải là không, mà tọa chủ bám chặt vào giáo thế thì hẳn là rơi vào không chứ gì!
Pháp Minh hỏi:
- Thiền sư rơi vào không chăng?
Thiền sư đáp:
- Chẳng rơi vào không.
Pháp Minh hỏi:
- Sao lại chẳng rơi vào không?
Sư đáp:
- Văn tự đều từ trí tuệ mà sanh, đại dụng hiện tiền đâu thể rơi vào không!
Cho thấy, với Thiền sư đã thông suốt thì ứng dụng văn tự một cách tự tại không lầm lẫn, sáng suốt không mê, dùng mà không chấp , không kẹt, chẳng đồng với người còn trong tình chấp, nghe đâu vướng đó. Cho nên, ban đầu Pháp Minh theo sự suy tưởng cho là Thiền sư rơi vào không, chẳng ngờ bị Thiền sư lật lại, chính ông mới lọt vào không mà không hay biết. Bởi, Thiền sư đã mở mắt trí tuệ, từ trí tuệ ứng dụng ra nên dùng văn tự mà vẫn sáng ngời, ngay lúc dùng đó vẫn có mặt ánh sáng chân thật rõ ràng thì “không” ở chỗ nào?
Chính Hòa thượng Triệu Châu nhân một hôm đang tham thiền ban đêm, Sư bảo tăng:
- Sáng lại chưa sáng, nói tối thì thắp sáng, ông ở bên nào?
Tăng thưa:
- Chẳng ở hai đầu.
Sư bảo:
- Thế ấy tức ở khoảng giữa.
Tăng thưa:
- Nếu ở khoảng giữa, liền ở hai đầu.
Sư bảo:
- Ông tăng này bao lâu rồi ở nơi lão tăng, trong này nói năng thế ấy chẳng ra khỏi ba câu. Song dù cho ra được cũng ở trong ba câu, ông làm sao?
Tăng thưa:
- Con sai khiến được ba câu.
Sư bảo:
- Sao chẳng nói sớm thế ấy?
Tại sao dù ra khỏi ba câu, vẫn ở trong ba câu? Đây là chỗ phải có con mắt Thiền sư mới thấu nổi. Theo ngôn ngữ mà hiểu là không thể hiểu thấu. Bởi, khi nói ra khỏi ba câu thì ở đâu mà ra khỏi? Tức là ở trong ba câu chứ gì? Thì chỗ thấy vẫn chưa rời khỏi ba câu! Trong đây, ông tăng tự có chỗ sống thật, nên đáp vững vàng: “Con sai khiến được ba câu.” Quả thực như thế mới là tự tại! Người đạt ý chỉ “bật lập văn tự” không thể thiếu con mắt này.
Và đây, vị tăng tên Minh Giáo đến tham vấn Thiền sư Đạo Nhàn ở La Sơn, Sư hỏi:
- Ông tên gì?
Tăng thưa:
- Dạ tên Minh Giáo.
Sư bảo:
- Lại có lãnh hội giáo hay chưa?
Tăng thưa:
- Tùy phần.
Sư dựng nắm tay lên bảo:
- Trên hội Linh Sơn gọi cái này là gì?
Tăng thưa:
- Là giáo nắm tay.
Sư cười bảo:
- Nếu thế ấy gọi là giáo nắm tay thì… Sư bèn duỗi hai chân ra nói… Cái này là giáo gì?
Tăng không nói được. Sư bảo:
- Phải chăng là giáo bàn chân ?
Đấy, Thiền sư khéo léo nhân tên Minh Giáo (xem phần chú thích ở trang 70) của ông tăng, Sư muốn khai thị lẽ thật nơi ông. Đáng tiếc ông tăng chưa qua khỏi cái hiểu bên ngoài, đành để lầm qua trứơc mắt. Nếu ông khéo thấy thì chính ngay khi Thiền sư Đạo Nhàn giơ nắm tay lên bảo: Trên hội Linh Sơn gọi cái này là gì?”, liền thưa: “Cảm ơn Hòa thượng chỉ dạy là xong, đâu nhọc phải nói giáo bàn tay làm gì? Người còn kẹt trên kiến giải cần nghiệm kỹ điểm này!
II. TINH THẦN THỂ NGHIỆM CỦA THIỀN
Nói “giáo ngoại biệt truyền”, nói “bất lập văn tự”, với tinh thần đó, thiền môn luôn đòi hỏi người học phải tự thể nghiệm thực sự nơi chính mình, bằng một sức sống chân thật ngay trong lòng mình, chớ không thể chỉ hiểu suông. Phật pháp sâu xa màu nhiệm đã trải qua thời gian dài của sự truyền bá, mà phương tiện truyền bá ở cõi Ta Bà này lại là ngôn ngữ văn tự, vì vậy con người dần dần lọt vào cái khuôn chữ nghĩa, thiếu mất sức sống chân thật nơi tự tâm, đó là điều Phật Tổ hằng lo lắng. Nếu không có sự thể nghiệm ấy, thì làm sao có sự chuyển hóa tập khí chính mình, có sức thắng được phiền não sanh tử? Khẩu đầu thiền, thiền đầu môi, là câu mà các Thiền sư thường quở trách, mình có vượt khỏi được chưa?
Hòa thượng Châu Hoằng, một hôm Sư đang chép kinh Thập Thiện, có ông tăng đến nói với Sư:
- Trong pháp của tôi thì một hạt bụi chẳng lập, đâu bày ra mười hạnh (thập thiện) làm gì?
Hòa thượng Châu Hoằng liền bảo:
- Năm uẩn lăng xăng, bốn đại dẫy đầy, sao bảo là không hạt bụi?
Tăng nói:
- Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có.
Bất ngờ Sư tát cho ông một tát tai bảo:
- Hạng học nói suông như mè, như lúa, chưa đúng hãy nói lại!
Tăng không đáp được bực bội đứng dậy. Sư cười bảo:
- Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao ông chẳng phủi đi?
Nói “một hạt bụi chẳng lập” nghe hay qua nhưng bị tát một cái liền bực bội thì có lập hay không? Ngay đó thì “bốn đại vốn không, năm ấm chẳng phải có” đã bay đi đâu mất rồi! Do đó, Hòa thượng Châu Hoằng mới bảo: “Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao chẳng phủi đi?” Chớ nói suông vô ích!
Bởi vậy Thiền tông rất chú trọng đến sự thể nghiệm, thường quở trách thiền trên chót lưỡi và hay đả phá kiến giải suông, đưa người thẳng vào. Nan-in, một Thiền sư Nhật thuộc thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), nhân một hôm có vị giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Thiền sư rót trà mời ông. Tách trà đã đầy, nhưng Thiền sư cứ tự nhiên rót tiếp không ngừng. Nước tràn ra ngoài. Vị giáo sư không kềm được nữa, phải thốt lên:
- Đầy tràn rồi! Xin thầy đừng rót nữa!
Thiền sư Nan-in thong thả bảo:
- Cũng giống như tách nước này, trong ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông thì làm sao tôi còn có chỗ để tỏ bày thiền cho ông được, trừ khi ông chịu cạn cái tách của ông trước đi!
Thật là một ý nghĩa thâm thúy! Câu chuyện ngầm nói lến, người đến với thiền mà torng đầu còn chứa đầy ắp những kiến thức vay mượn, ôm một khối to khái niệm hiểu biết thì còn mong gì tiếp nhận được nữa! Như thế là đến để phô bày kiến thức, đâu phải đến để học thiền!
-
Thiền nhổ đinh tháo chốt, không lập một pháp.
Chính vì lẽ trên, thiền vốn không lập một pháp thật, không có gì để cho người nhận, chỉ cốt nhổ đinh tháo chốt, cởi mở tình chấp cho người, khiến người tự sống dậy. Hỏi: Thế nào là Phật. Đáp: Ba cân gai. Thì có gì để hiểu? Có gì để nhận? Chừng nào trong đầu bạn còn có một khái niệm, cón có một kiến giải chắc thật thì Thiền sư vẫn còn đập phá để cho trong lòng bạn thật rỗng rang không một vật mới mong khế hợp cơ thiền. Hãy nhìn Huệ Nam bị Từ Minh mắng chửi! Sư ở pháp hội của Thiền sư Thê Hiền được cử làm thư ký. Chợt Thê Hiền tịch, quận thú mời Từ Minh đến trụ trì. Được tin này Sư rất vui mừng, có cơ hội để nghiệm xét lời Văn Duyệt nói với Sư trước kia, lúc ở Tây Sơn, Duyệt đã thúc đẩy Sư đến gặp Từ Minh.
Khi Từ Minh đến, Sư trông thấy ngài thì thân tâm đều cung kính. Kế nghe Từ Minh luận nói, phần nhiều ngài chê các nơi, mỗi điều đều trách là thuộc tà giải. Chính chỗ Sư được mật chỉ nơi Phần Đàm cũng bị bác bỏ. Sư nhớ lại lời nói của Văn Duyêt lúc trước rất đúng. Sư liền thay đổi quan niệm nói:
- Đại trượng phu trong thâm tâm cứ nghi ngại hoài sao?
Sư liền vào thất Từ Minh thưa:
- Huệ Nam tối dốt, trông đạo mà chưa thấy. Giờ tham thiền khi hôm, nghe thầy dạy, như người đi lạc đường được xe chỉ nam. Cúi xin Hòa thượng đại từ bố thí pháp khiến cho con được hết nghi ngờ?
Từ Minh cười bảo:
- Thư ký đã lãnh đồ chúng và du phương nổi tiếng khắp tùng lâm,nếu còn có nghi ngờ thì chẳng khổ cầu như vậy, hãy ngồi mà thương lượng (bàn bạc).
Từ Minh liền gọi thị giả đem ghế mời Sư ngồi. Sư vẫn từ chối và thành khẩn tha thiết cầu chỉ dạy.
Từ Minh bảo:
- Thư ký học thiền Vân Môn ắt thông được yếu chỉ ấy. Như nói: “Tha Động Sơn ba gậy” Động Sơn khi ấy nên đánh hay chẳng nên đánh?
Sư thưa:
- Nên đánh.
Từ Minh nghiêm nghị bảo:
- Nghe tiếng “ba gậy” liền cho là nên ăn gậy, vậy ông từ sáng đến chiều nghe chim kêu, trống đánh, tiếng chuông, tiếng bảng cũng nên ăn ba gậy. Thế thì ăn gậy đến lúc nào mới thôi?
Sư chỉ nhìn sững mà thôi.
Từ Minh lại bảo:
- Tôi lúc đầu nghi không thể làm thầy ông. Giờ đây đã đủ tư cách làm thầy ông. Ông hãy lễ bái đi!
Sư lễ bái xong, đứng dậy. Từ Minh nhắc lại lời trước:
- Nếu ông lãnh hội đựơc ý chỉ Vân Môn thì, Triệu Châu thường nói: “Bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá, thử chỉ ra chỗ khám phá xem?”
Sư mặt nóng hực, mồ hôi xuất hạn, không biết đáp thế nào, bị Từ Minh đuổi ra.
Hôm sau Sư lại vào thất, bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn mọi người bên cạnh nói:
- Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng chửi đâu phải phải quy cũ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười bảo:
- Đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này Sư đại ngộ. Như vậy Từ Minh mắng chửi Huệ Nam có gì lạ? Bởi Huệ Nam đã là thư ký, đã từng chứa một bụng thiền rồi, lại kẹt theo lời, theo tiếng, nên Từ Minh mắng chửi cho nó xẹp, nó bể đi, cho hết còn chỗ để bám, mới bừng dậy sức sống mới. Nếu cứ để nó óch ách trong lòng, nó nặng trĩu trong đầu thì lại nuôi lớn ngã kiến và luôn bao bọc chung quanh một lớp si mê vô hình này, làm sao có kẻ hở để lóe sáng. Nghe mắng chửi hiểu là mắng chửi, tức là theo tiếng snah hiểu nữa rồi. Vì vậy Từ Minh đánh thức: “Đó là mắng chửi sao?” liền đó Huệ Nam chợt tỉnh dậy, vượt qua mọi khái niệm trong đầu.
Còn đây, Tuyết Phong hỏi Hòa thượng Đức Sơn:
- Việc trong tông thừa con có phần chăng?
Đức Sơn đánh cho một gậy bảo:
- Nó cái gì?
Sư liền như thùng lủng đáy.
Thùng lủng đáy tức lọt tuốt tất cả, không còn chứa lại một chút gì. Vậy mà ở Ngao Sơn, Sư còn thú thật với Nam Đầu: “Tôi thật còn chưa ổn.” Và chính nhờ Nam Đầu trợ giúp mới thành đạo tại Ngao Sơn này.
" Chẳng mai một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương".
Hoàng Bá đã từng nhắc nhỏ, cảnh tỉnh cho người học thiền như thế. Bởi các ngài đã từng nếm qua việc này, từng kinh nghiệm xương máu nên mới nói ra những lời thành thật như trên. Người kiến giải cho đó là tầm thường. Người chứng nghiệm thì cảm sâu tận xương tủy, khó nói hết bằng lời, do đó rất thấm thía!
-
Thể nghiệm ở đâu?
Đã biết thiền cần phải thể nghiệm, không thể nói suông, nhưng thể nghiệm ở đâu?
Hỏi ở đâu lại là chưa biết thiền. Có ở đâu là thuộc cái bên ngoài, là đi vào chữ nghĩa nữa rồi. Thiền là phải thể nghiệm nơi tự tâm thôi, không thể có ở đâu khác. Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Khi ở ngay tâm, tâm chẳng lường biết thì thế nào?
Sư bảo:
- Lường biếtai?
Sư bảo:
- Không hai kẻ.
Đã ở ngay tâm, còn hỏi gì nữa? Hỏi như thế là chứng tỏ mình đang ở ngoài rồi. Bởi vậy trong đây vừa hỏi ở đâu, là xa mất ngay. Bởi, có ở đâu tức đặt thành chỗ nơi; mà có chỗ nơi tức bị dời đổi, đi vào luân hồi, xoay chuyển không biết ngày dừng!
Bảo Triệt cùng Đơn Hà đi đến núi Ma Cốc, Sư liền nói:
- Tôi đến trong đó trụ.
Đơn Hà bảo:
- Trụ tức lại trở về, có cái này không?
Sư nói:
- Trân trọng!
Đây cho thấy rõ hễ vừa có trụ tức thành có chỗ, mà có chỗ là rơi lại sanh tử, là quên mất chính mình. Với tâm phàm thì luôn luôn phải tìm chỗ nơi, bởi vì nó đang sống theo duyên, mất duyên thì chới với, mờ mịt. Kinh Lăng Nghiêm Phật đâu từng chẳng bảo A Nan: “Nếu thật là tâm tánh ông thì nó phải rời tiền trần mà có toàn tánh. Nếu rời tiền trần mà không có toàn tánh thì không phải thật.” Rõ ràng tâm duyên thì luôn bám vào tiền trần, nghĩa là luôn luôn tìm có bạn, không bạn thì dường như không có. Đó là sống lệ thuộc, sống nươgn tựa vất vưởng nên gọi đó là sống trong hư vọng. Trong khi đó chính mình đang hiện hữu ngay mọi hành động hằng ngày lại không biết.
Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:
- Những bậc lão túc các nơi trọn nói tiếp vật lợi sanh, bỗng gặp người có ba thứ bệnh đến thì làm sao tiếp?
Bệnh mù thì cầm chùy, dựng phất họ chẳng thấy. Bệnh điếc thì ngôn ngữ tam muội họ chẳng nghe. Bệnh câm thì dạy họ nói lại nói chẳng được. Vậy thì phải làm sao tiếp? Nếu tiếp chẳng được người này thì Phật pháp không còn linh nghiệm.
Có vị tăng đem việc này hỏi ngài Vận Môn. Vân Môn bảo:
- Ông lễ bái đi!
Tăng lễ bái xong đứng dậy. Vân Môn lấy cây gậy đưa tới, tăng lùi lại sau, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh mù.
Vân Môn gọi:
- Lại gần đây!
Tăng tiến lại gần, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh điếc.
Vân Môn dựng cây gậy lên hỏi:
- Lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Chẳng lãnh hội.
Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh câm.
Vị tăng liền tỉnh ngộ.
Người có ba thứ bệnh đó ở đâu?
Có phải là chúng ta đây chăng? Hiện tại thấy, nghe, đáp rõ ràng có thiếu chỗ nào đâu? Trái lại, ngay đó lầm qua mất thì có khác gì đui, điếc, câm! Cần thể nghiệm ngay chỗ này, chớ tìm đâu khác. Chính đó là bài pháp sống! Thiền sư luôn đánh thức người sống lại trong ấy.
Có một Thiền sư Nhật Bản tên Nhất Hưu lúc Sư ở dưới núi Tỉ Duệ, một hôm thấy tín đồ ùn ùn kéo nhau lên n1ui nhân đến kỳ tự viện trên đấy phơi tạng kinh. Theo truyền thuyết thì khi phơi tạng kinh, nếu ai được làn gío thổi trên trang kinh phất qua mình sẽ được tiêu trừ tai ách, tăng trưởng trí tuệ. Vì lẽ đó mà mọi người đua nhau lên núi để mong đón được ngọn gió đó. Thiền sư Nhất Hưu biết vậy, Sư cũng nói:
- Tôi cũng cần phơi tạng kinh.
Nói xong, Sư vạch áo bày trần hông bụng nằm trên bãi cỏ phơi dưới ánh mặt trời. Nhiều tín đồ trông thấy khó chịu, cho là thiếu lịch sự. Vị pháp sư ở tự viện trên n1ui nghe n1oi, bèn đến khuyên Nhất Hưu chẳng nên làm việc mất oai nghi như thế.
Thiền sư Nhất Hưu thật tình giải thích:
- Các ngài phơi tạng kinh đó là phơi tạng kinh chất, nó biết sanh mối mọt mà chẳng biết hoạt động. Còn tạng kinh của tôi phơi là Tạng kinh sống, nó biết nói pháp, biết làm việc, biết ăn cơm; Người có trí tuệ phải nhận rõ tạng kinh này mới quý giá! (Tinh Vân Thiền Thoại)
Đó là Thiền sư muốn đánh thức cho người hãy xoay lại chính mình, phải thể nghiệm được sức sống chân thật ngay chính mình đây, chỗ đó mới là chỗ đáng quý, mới có giá trị thực sự, không phải hiểu suông, không thể chết ở trên hình tướng bên ngoài.
-
Làm sao thể nghiệm?
Chỗ này phải chín chắn, chớ để bị ngôn ngữ chuyển. Nếu có làm sao tức thành tạo tác rồi và như vậy là không thể có thể nghiệm. Vì đã thành tạo tác là thuộc pháp sanh diệt, đó là cái có thể suy nghĩ, có thể hiểu biết, là vẫn nằm trong tình mê!
Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ có lần thượng đường bảo:
- Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một cái giàn có người gỗ máy, luiền đến gần xem, thì thấy hoặc đẹp đẽ lạ lùng hoặc xấu xí vô kể, động chuyển đi ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi thấy xong, đến khi chín chắn xem kỹ lại, vốn là miếng vải xanh bọc lại, bên trong có người. Lão tăng nhịn không nổi, bèn đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy bảo: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kẻ ấy hỏi một câu, liền không lời có thể đáp, không lý có thể bày, trong đây có ai vì lão tăng nói được chăng?
Hôm qua trong ấy rơi cành
Ngày nay trong đây nhổ gốc.
Đó là một bài pháp thiền. Hãy xem Thiền sư Pháp Diễn nói: Lão tăng đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy đáp: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Liền đó Sư không lời có thể đáp, không lý có thể bày. Đã thấy thì tự biết ngay, còn hỏi tên hỏi họ làm gì? Muốn diễn tả bằng lời để hiểu là tự trái xa rồi. Bởi hiểu được nó thì nó thành cái bị hiểu, là thuộc cái bóng thứ hai, không phải thật. Muốn đặt tên cho nó là gượng ép dán nhãn hiệu vào nó , biến nó thành vật để hiểu, tức ngay trước mắt lầm qua! “Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc”, quét sạch hết mọi chỗ cho ông có thể duyên, tự trong ấy sống dậy liền gặp nhau.
Để rõ thêm, chứng ta hãy nghe đoạn nhân duyên Hòa thượng Tùng Sơn với cư sĩ Bàng Uẩn uống trà, cư sĩ đưa tách trà lên hỏi:
- Mỗi người trọn một phần, vì sao nói chẳng được?
Tùng Sơn đáp:
- Sở dĩ nói chẳng được, chỉ vì mỗi người đều trọn có.
- Tại sao a huynh nói được?
- Chẳng thể không lời.
- Rõ ràng! Rõ ràng!
Sư bèn uống trà. Bàng Uẩn nói:
- A huynh uống trà sao chẳng mời khách.
- Ai?
- Bàng Công!
- Sao lại mời!
Đưa tách trà lên, ngưới người đều trọn thấy rõ, còn phải nói thế nào? Việc này đâu ai dối gạt được ai. Uống trà đi là xong. Đã là chính mình sao con2 phải đợ mời? Chỗ này ngôn ngữ làm sao nói hết? Chỉ phải một phen xông thẳng vào, tự sống dậy vỗ tay cười to ha hả là xong. Như Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ tống cho một đạp té nhào. Ngay đó Thủy Lạo đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to nói:
- Trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, chỉ ở trên đầu sợi lông đủ hết thảy.
Đó là đưa người thẳng vào thể nghiệm, không giải thích “làm sao?” “thế nào?” theo chữ nghĩa dài dòng. Thủy Lạo tự cảm nghiệm lấy trực tiếp cũng ra ngoài chỗ suy nghĩ tính trước. Người đứng bên ngoài khó hiểu nổi, dù có hiểu cũng hiểu méo mó theo ngã kiến.
Đạt Quán Dĩnh ở chỗ Hòa thượng Cốc Ẩn, sau khi được thầm khế hội, Sư hỏi:
- Như Thạch Đầu nói: Chấp sự nguyên là mê, khế lý cũng chẳng phải ngộ.
Cốc Ẩn hỏi:
- Ông cho là lời nói thuốc hay lời nói bệnh.
Sư thưa:
- Lời nói thuốc.
Cốc Ẩn quở:
- Ông lấy bệnh làm thuốc, lại đâu có thể được thay!
Sư nói:
- Sự như phong thư được gói kín. Lý như mũi tên thẳng đầu nhọn. Chỗ nhiệm mầu đâu có thêm mà còn cho là bệnh, thật chưa rõ yếu chỉ?
Cốc Ẩn bảo:
- Chỗ nhiệm mầu đến thế đó cũng chỉ gọi là lý sự. Chỗ ý chỉ của Tổ sư, trí biết không thể đến được, huống nữa là sự lý mà hay cùng tột đó sao? Cho nên đức Thế Tôn nói: Lý chướng ngăn ngại cái thấy biết đúng. Sự chướng tiếp nối các sanh tử.
Sư dường như chợt tỉnh cơn mộng thưa:
- Làm sao thọ dụng?
Cốc Ẩn bảo:
- Lời nói chẳng rời khuôn sáo cũ, làm sao ra khỏi ràng buộc.
Sư than:
- Vừa dính môi lưỡi, liền rơi vào ý nghĩ, trọn là cửa chết, rốt cuộc chẳng phải con đường sống vậy.
Chỗ “ý chỉ của Tổ sư” trí biết không thể đến được. Dù người thấy hiểu cao siêu đến đâu mà còn thấy có cái “lý” để khế hợp, là vẫn chưa phải thật hiểu, vì còn bị trí soi đến, còn luận bàn được, chưa gọi là nhiệm mầu. Đến chỗ thật nhiệm mầu thì vượt ngoài ngôn ngữ luận bàn, bỏ xa trí suy luận, chỉ có thể Phật cùng Phật biết đựơc thôi . Đó là chỗ chánh định tự thọ dụng, thiền chứng nghiệm chính ở trong ấy.
Hòa thượng Triệu Châu đã ngầm chỉ ý này qua đoạn nhân duyên có vị tín đồ đến hỏi Sư:
- Tham thiền thế nào mới hay ngộ đạo?
Chợt Sư đứng dậy khỏi tòa nói:
- Tôi cần đi tiểu xong đã.
Sư đi mấy bước, quay đầu lại bảo:
- Ông hãy xem đó! Việc nhỏ như đi tiểu thế ấy mà tôi cũng cần phải tự đi, người khác không thể thay thế được.
Ý Triệu Châu muốn chỉ việc này mình phải tự thể nghiệm ngay chính mình, không thể tìm nới người. Không ai thể nghiệm thay cho mình được. Còn hướng ra ngoài tìm cầu thì chỉ là đạp trên cảnh giới của người khác, chưa thể có sự chứng ngộ chân thật.
Nói thẳng, thiền là ở ngay đây, tại đây! Không thời gian! Vừa kẹt thời gian, liền có không gian, tức cách biệt ngay. Có vị tăng đến hỏi một Thiền sư:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Thiền sư bảo:
- Hãy đến gần đây!
Tăng đi đến gần, Sư bảo:
- Ông lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Dạ không.
Sư bảo:
- Như một ánh chớp đã qua bao a tăng kỳ kiếp.
Trong đây là phải thấy nhanh hơn làn chớp, không cho niệm thứ hai kịp xen vào. Chậm một chút là đã trải qua vô số kiếp rồi. Nhưng nhanh một chút cũng vượt qua vô số kiếp một cách dễ dàng. Bảo: Hãy đến gần đây! Liền đi đến gần. Ngay đây sẵn đủ tất cả! Chỉ phải trống lòng, sạch mọi kiến chấp, thẳng đó liền nhận, không trải qua thứ lớp. Thiền thể nghiệm là VƯỢT KHÔNG GIAN, THỜI GIAN.
III. TÓM KẾT
Thiền tông nhắm thẳng tâm người, khiến người sống ngay thực tại sáng ngời luôn hiện hữu, không cho dừng trụ trên bất cứ hình htức chữ nghĩa nào. Đi qua và đi qua tất cả mọi ngôn ngữ lập bày, Thiền có một sức sống chân thật ngay chính mình. Bao nhiêu khuôn khổ khái niệm sẵn sàng bỏ lại đằng sau không nuối tiếc. Chính thế, thiền có những lời nói trái tai, ngược đời, những thủ thuật khai thị cho người thật táo bạo, vượt ngoài sức hiểu biết của tâm thức phân biệt thông thường. Do đó người mới đến với thiền cảm thấy dội ngược, đôi khi nghi ngờ vì thấy trái với cái khuôn mình được truyền dạy, học hiểu bấy lâu. Từ đó khiến có người trở lại chê bai, chỉ trích thiền.
Song xét kỹ lại, không hiểu nổi rồi chê bai, chỉ trích thì đâu là chân lý? Trong khi đó, với Thiền sư thì nói một chữ “thiền” đã là dư rồi, vậy người sẽ bám vào đâu để chỉ trích? Nói cho cùng thì vẫn luẩn quẩn trong vòng văn tự, chữ nghĩa thôi. Trong nhà thiền thường nhắc “không vào hang cọp sao bắt được cọp con”, không để lọt hở có chỗ cho người dòm lén. Hòa thượng Đức Sơn bảo: “Này các ông! Khoảng này không có một pháp cho các ông giải hội, tự mình cũng chẳng hội thiền, ta cũng chẳng phải thiện tri thức, mọi việc đều không hiểu, chỉ biết đi ỉa, đi đái, ăn cơm, mặc áo, còn có việc gì ? ”. Như vậy, trong đây còn có chỗ nào để cất chứa chữ nghĩa, kiến thức hiểu biết? Lo bám vào lời Tổ, moi móc trong ngữ lục để hiểu, có dính dáng gì?
Nói thẳng, học thiền là học ý nghĩa sống, không phải học theo chữ nghĩa chết. Kìa, người người cứ lo tham cứu con mèo của Nam Tuyền, cây bách, chữ “không” của Triệu Châu, cái bánh của Vân Môn. Nhưng Nam Tuyền không có trong con mèo, cũng không có trong chiếc giày đội đầu của Triệu Châu, không ở trong cây bách trước sân, cũng không có trong chữ “không”, Vân Môn không có trong cái bánh. Mọi người muốn thấy Nam Tuyền, Triệu Châu, Vân Môn chăng? Chính ngay chỗ chẳng hiểu này, hãy xoay lại trong ấy, chớ tìm đâu khác.
Tóm lại, với ý chỉ “bất lập văn tự”, thiền đòi hỏi người học một sức chứng nghiệm chân thật, không lệ thuộc trên chữ nghĩa. Dù nghiên cứu, học hiểu hay giỏi đến đâu mà thiếu chứng nghiệm thì vẫn đứng ngoài cửa thiền. Do đó, người muốn thấu triệt bản thân thiền, quyết phải thực hành thiền, không thể chỉ y cứ trên hình thức phân tích lý luận mà có thể đến được. Nghĩa là, phải thực sự là một hành giả thiền chớ không thể là học giả. Đây là điều trọng yếu không thể bỏ qua đối với Phật đạo nói chung, thiền nói riêng.
Ý nghĩa này đi đôi với “giáo ngoại biệt truyền” ngầm đánh thức sức sống chân thật chính ở trong tự tâm của mỗi người. Cần phải từ trong đó mà sống dậy, mới cảm nghiệm được chỗ truyền trao của chư Phật, chư Tổ, đừng giam mình trong ngục tù của ngôn ngữ văn tự mà đánh mất đi cái sanh mạng tuyệt đối hằng có nơi mình. Có sống được với sanh mạng tuyệt đối này, từ đó chúng ta ứng dụng ra ngôn ngữ văn tự thì dùng nó mới đúng ý nghĩa, không lầm lẫn. Chính chỗ này thiền đòi hỏi hành giả phải minh tâm kiến tánh, tức sáng được tâm, tỏ được tánh. Và đây, để tóm tắt lại ý nghĩa trên bằng câu chuyện thiền giả ngồi thiền tại Tàng Kinh Lâu.
Tại Tàng Kinh Lâu, có một thiền giả ở trong đó nhưng chẳng xem kinh, đọc sách chi cả, trái lại mỗi ngày vị ấy chỉ ngồi thiền thôi. Vị Tạng chủ trông coi Tàng Kinh Lâu này bèn hỏi:
- Đại đức vì sao mỗi ngày chỉ ngồi thiền mà không xem kinh?
Thiền giả thản nhiên đáp:
- Vì tôi chẳng biết chữ?
Tạng chủ bảo:
- Vì sao chẳng thưa hỏi người?
Thiền giả hỏi:
- Phải thưa hỏi ai?
Tạng chủ nói tự nhiên:
- ông có thể thưa hỏi với tôi đi.
Thiền giả liền đứng dậy làm lễ rồi khoanh tay hỏi:
- Xin hỏi cái này là cái gì?
Tạng chủ bị một câu hỏi này chỉ biết ngậm miệng, mờ mịt không biết trả lời thế nào.
Ôi Tạng chủ trông coi cả một tạng kinh thì phải biết ông đã đầy một bụng chữ nghĩa không ít, nhưng bị một câu hỏi này, đành ngậm miệng không lời đáp được, vậy lúc đó bao nhiêu chữ nghĩa đang cất ở đâu? Hành giả cần nghiệm kỹ, chớ vội bỏ qua chỗ này!
CHÚ THÍCH:
(1) Dẫn kinh Lăng Già, Phật bảo Bồ tát Đại Huệ:
- Đại Huệ! Chẳng phải tất cả cõi nước có ngôn thuyết. Ngôn thuyết là tạo tác vậy. Hoặc có cõi Phật nhìn xem mà hiển bày pháp, hoặc có cõi Phật làm ra hình tướng, hoặc có cõi nước nhướng mày, hoặc có cõi nước chớp mắt, hoặc cười hoặc ngáp hoặc tằng hắng, hoặc có cõi nước suy nghĩ, hoặc giao động. Đại Huệ! Như thế giới Chiêm Thị và Hương Tích, cõi nước Phổ Hiền, Như lai chỉ dùng nhìn xem khiến các Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn và các tam muội thù thắng. Thế nên, chẳng phải ngôn thuyết có tánh, có tất cả tánh. Đại Huệ! Thấy ở thế giới này ruồi lằn, trùng kiến, các chúng sanh ấy không có ngôn thuyết mà mỗi loài đều làm việc xong xuôi. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn trang 200)
(2) Hòa thượng Đả Địa nhận được ý chỉ nơi Mã Tổ, Sư thường ẩn danh. Mỗi khi có người tham học đến hỏi đạo, Sư chỉ lấy gậy đập xuống đất chỉ đó nên gọi là Hòa thượng Đả Địa. Một hôm bị vị tăng giấu cây gậy đi, sau đó hỏi Sư, Sư chỉ há miệng.
Có vị tăng hỏi môn nhân của Sư:
- Chỉ như Hòa thượng mỗi ngày có người hỏi liền đập đất, ý chỉ thế nào?
Môn nhân liền lấy một mảnh củi trong bếp ném vào trong nồi. (Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(3) Thản Nhiên đến hỏi Quốc sư Huệ An:
- Thế nào ý Tổ sư từ Tây sang?
Quốc sư đáp:
- Sao chẳng hỏi ý của chính mình?
Thản Nhiên hỏi:
- Thế nào là ý của chính mình?
Quốc sư đáp:
- Nên xem tác dụng thầm kín.
Thản Nhiên hỏi:
- Thế nào là tác dụng thầm kín?
Sư liền nhắm mắt, mở mắt chỉ đó.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(4) Nơi Sư ở.
(5) Sáng tỏ được giáo.