headertvtc new


   Hôm nay Thứ tư, 06/11/2024 - Ngày 6 Tháng 10 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

khanhtueSuOng2024

TU THIỀN CÓ CHỨNG ĐẮC HAY KHÔNG ?

I. ĐẶT LẠI VẤN ĐỀ CHỨNG ĐẮC.

Thường thường với tâm lý người thế gian hễ làm việc gì cũng mong muốn có kết quả, được thành tựu cái gì đó mới chịu, mới hăng hái làm. Trong đạo, người tu thì muốn đắc quả, muốn chứng đạo, cho nên có những danh từ đắc đạo, đạt đạo, chứng đạo, thành đạo v.v… Vậy thật sự có đạo để chứng, để thành hay không? Đây là điểm cần phải nhận định kỹ, không để bị lầm lẫn, bị gạt khiến rơi vào đường tà.

Nếu bảo là không: thì tại sao có CHỨNG ĐẠO CA? Tức khúc ca nói lên sự chứng đạo của Thiền sư Huyền Giác rất nổi tiếng trong nhà thiền.

Hoặc như Hòa thượng Câu Chi lúc ở am có bà ni tên Thật Tế đến am của Sư bèn đi thẳng vào chẳng giở nón, cầm gậy đi quanh giường thiền ba vòng và nói:

- Nói được thì tôi giở nón!

Hỏi ba lần Sư không đáp được. Vị ni từ giã đi. Sư cầm lại:

- Trời đã chiều, cô hãy ở lại nghỉ tạm.

Vị ni nói:

- Nói được thì ở lại.

Sư cũng không nói được. Vị ni liền đi. Sư tự than:
- Ta tuy mang hình tướng trượng phu mà không có khí trượng phu!

Liền phát phẫn, quyết rõ việc này. Sư định bỏ am đi các nơi thưa hỏi. Đêm đó Sơn thần báo mộng:

- Thầy chẳng cần đi đâu khác. Ngày mai có nhục thân Bồ tát đến, sẽ nói pháp cho thầy.

Hôm sau quả nhiên có Hòa thượng Thiên Long đến, Sư lạy thỉnh vào am, kể lại rành rẽ việc hôm qua. Nghe xong, Thiên Long liền đưa ngón tay lên chỉ đó!

Câu Chi bỗng nhiên đại ngộ.

Sau này, khi sắp tịch Sư bảo chúng:

- Ta được một ngón tay thiền của Hòa thượng Thiên Long, cả đời dùng chẳng hết. Cần hiểu chăng? Sư đưa ngón tay lên rồi tịch.

Hãy xem ngài Câu Chi tuYên bố giữa chúng: “Ta được một ngón tay thiền của Hòa thượng Thiên Long, cả đời dùng chẳng hết.” Chỉ một ngón tay thiền mà suốt đời dùng không hết. Là có được hay không ?

Hay như Hòa thượng Tuyết Phong, có vị tăng từ giã Sư đi. Sư hỏi:

- Ông đi đâu?

Tăng thưa:

- Con đi Hồ Nam.

Sư bảo:
- Ta có người bạn đồng hành ở Nham Đầu, gửi ông một lá thư đưa hộ cho. Thơ viết: “Tôi gởi thơ lên sư huynh, từ ngày tôi thành đạo ở Ngao Sơn về sau cho đến nay vẫn còn no chưa đói.”

Một phen thành đạo về sau no mãi chẳng đói, là có được hay không ?

* NẾU NÓI CÓ: Sao có vị tăng hỏi Hòa thượng Tuyết Phong:

- Hòa thượng gặp Tuyết Phong được cái gì liền thôi?

Sư đáp:

- Ta đi tay không về tay không.

Xem Sư, đi tay không, về tay không thì có được cái gì ?

Và chuyện Động Sơn Y Bát. Có vị tăng hỏi Động Sơn:

- “Thường thường xuyên lau chùi” vì sao chẳng được y bát kia? Chưa biết người nào nên được ?

Tăng thưa:

- Chỉ như người chẳng vào cửa, lại được hay không ?

Sư đáp:

- Tuy nhiên như thế, không thể chẳng cho y.

Sư bèn hỏi lại:

- Nói thẳng “xưa nay không một vật” vẫn còn chưa thể gọi là được y bát kia, ông hãy nói người nào nên được? Trong đây nên hạ một chuyển ngữ, hãy nói là chuyển ngữ gì ?

Bấy giờ có vị tăng nói 96 chuyển ngữ đều không khế hợp, đến một chuyển ngữ cuối cùng mới hợp ý Sư.

Có vị tăng rình nghe nhưng không nghe được một chuyển ngữ cuối cùng đó, ông bèn theo hỏi vị tăng ấy. Vị tăng ấy cũng chẳng chịu nói. Suốt ba năm như thế theo hỏi mà chẳng được vị tăng ấy thuật lại câu đó. Một hôm vị tăng ấy bị bệnh, ông tăng này liền bảo:

- Tôi ba năm nay xin được thuật lại lời trước kia mà chẳng được. Thượng tọa từ bi nói, dùng lành chẳng được thì phải dùng dữ.

Ông bèn cầm con dao bén bảo:

- Nếu Thượng tọa chẳng thuật lại cho tôi nghe, tôi giết Thượng tọa ngay!

Vị tăng ấy tỏ vẻ run sợ nói:

- Xà lê! Hãy đợi tôi thuật lại cho!

Bèn nói: - Dù cho đem đến cũng không chỗ để !

Ông tăng này liền lễ tạ.

Hãy nghe kỹ câu nói “Dù cho đem đến cũng không chỗ để ” trong ấy vốn là “xưa nay không một vật thì có chỗ nào bám ?

Vậy cuối cùng là có chứng đắc hay không ? Rồi việc truyền tâm ấn trong nhà thiền là thế nào ?

II. TU CHỨNG TỨC CHẲNG KHÔNG, NHIỄM Ô CHẲNG THỂ ĐƯỢC.

Để rõ việc chứng đắc, chúng ta nghe câu chuyện ngài Hoài Nhượng đến tham vấn Lục Tổ liền sáng tỏ.

Sư đến gặp Lục Tổ, Tổ hỏi:

- Ở đâu đến ?

Sư thưa:

- Từ Tung Sơn đến.

Tổ hỏi:

- Vật gì thế ất đến ?

Sư không đáp được. Trải qua tám năm Sư có tỉnh bèn đến Tổ thưa:

- Con có chỗ lãnh hội

Tổ hỏi:

- Lãnh hội thế nào ?

Sư thưa:

- Nói giống một vật tức chẳng trúng.

Tổ gạn lại:

- Có tu chứng chăng?
Sư thưa:
- Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được.
Tổ bảo:
- Chỉ cái "chẳng nhiễm ô" này,  là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.

Qua chỗ đối đáp của ngài Hoài Nhượng, cho thấy Sư đã thật sự có chỗ sống đàng hoàng, không phải chỉ hiểu trên lý suông. Xem Sư trả lời: “Nói giống một vật tức chẳng trúng” chỗ chân thật đó vốn vượt ngoài mọi sự so sánh hiểu biết của thức tình phân biệt. Có chỗ so sánh tức thành cái bị biết rồi. Song Tổ còn e rằng Sư chỉ hiểu trên lý giải thôi mà chưa có chỗ thực chứng, nên gạn lại: “Có tu chứng chăng?” nếu là người kiến giải suông sẽ đáp ngay: “Không có tu chứng.” Vì nó không giống một vẫt thì tu chứng cái gì? Song với Sư thì trả lời chắc thật: “Tu chứng tức chẳng không, nhễm ô chẳng thể được.” Nghĩa là, tuy trong ấy nói giống một vật cũng không trúng, không thể so sánh hiểu biết được, mà không phải là chỗ nói suống, chỉ có trên ngôn ngữ. Trái lại, trong đó có thể chứng nghiệm rõ ràng, người có công phu chân thật khế hợp thì tự cảm nhận không nghi ngờ. Chỉ có một điều là “nhiễm ô nó chẳng thể được",  xưa nay nó vốn chưa từng bị nhiễm ô, cũng không có cái gì làm nhiễm ô được nó. Nếu làm nhiễm được nó, nó thành cái vô thường rồi! Đã nhiễm ô chẳng thể được thì nói tu chứngthực không có cái gì khác để tu, để chứng. Lời đáp rất đầy đủ cả hạnh và giải, vì vậy Lục Tổ vừa nghe qua liền ấn chứng ngay: “Chính cái chẳng nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.” Nghĩa là, ông thấy thấu được như thế, là thấu được chỗ sống của chư Phật. Chư Phật thành Phật là do giác ngộ chỗ này và sống viên mãn, trọn vẹn trong đó mà thành thôi. Rời chỗ đó thì Phật hết là Phật, nên nói là chỗ "hộ niệm", tức giữ gìn không thể sót mất. Ông đã như thế thì ta cũng như thế, tức chỗ thấy của ông khế hợp chỗ thấy của ta, không còn cách biệt, đó là ấn chứng, là truyền tâm ấn. Người đứng bên ngoài nghe nói truyền tâm ấn, liền tưởng tượng có cái gì đặc biệt để trao truyền khiến mình không hiểu nổi, từ đó nảy sinh ra những cách truyền lạ lùng bí mật. Quả là lầm lẫn ý Tổ, trở thành xuyên tạc và dối gạt lẫn nhau. Người học thiền phải chín chắn nhận rõ chỗ này!

* KHI NÓI KHÔNG CHỨNG ĐẮC

Trong nhà thiền khi nói vô sở đắc là có ý chỉ sâu xa trong đó.
+ Thứ nhất, là ngầm chỉ cái sẵn có. Nghĩa là, thể chân thật vốn là tự tánh sẵn có, không do công phu tạo tác bên ngoài mà thành, không do ai truyền trao cho được. Bởi vậy, với ngài Thần Tú: “Luôn luôn siêng lau chùi” là chỗ thấy còn trên hình thức công phu tạo tác bên ngoài, chưa thấu được chỗ “vốn chẳng thể nhiễm ô” nên chưa được vào cửa Tổ. Lục Tổ: “Xưa nay không một vật” thì có gì được mất trong ấy nữa? Liền đó được vào cửa.

Còn kia, Bá Trượng hỏi Mã Tổ:

- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Mã Tổ đáp:

- Chính là chỗ ông bỏ thân mạng.

Muốn biết chỉ thú hay yếu chỉ Phật pháp, chính là chỗ bỏ thân mạng của ông. Chỗ đó làm sao hiểu? Tức phải bặt hết mọi chỗ nương tựa, không còn gì để bám víu, để suy nghĩ hiểu biết. Trong đó còn ai được? Được cái gì ?

Xưa có vị Tỳ kheo hỏi Thế Tôn:

- Theo chỗ thấy của con thì đối trong pháp của Thế Tôn, vừa có chỗ chứng là chưa phải, vậy Thế Tôn sẽ chỉ dạy cái gì?

Thế Tôn bảo:

- Này Tỳ kheo! Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông.

Lời Phật thật sâu xa thay! "Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông". Ngay câu hỏi đó chính là câu trả lời rồi, còn suy tìm cái gì khác nữa đều chẳng phải. Câu hỏi rất hay, câu đáp rất chính xác, người nhạy bén liền đó tự nhận là xong.

Kinh Kim Cang, Phật bảo Trưởng lão Tu Bồ Đề: “Thật không có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Phật Nhiên Đăng tức chẳng thọ ký cho Ta: ‘Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.’ Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì vậy Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, nói lời thế này: ‘Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.’”

Tức lúc đó Phật còn là vị Bồ tát, hiện thân làm đồng tử Thiện Tuệ cúng dường phật Nhiên Đăng năm cành hoa sen xanh, trải tóc lót bùn cho Phật đi qua, được Phật Nhiên Đăng thọ ký trải qua chín mươi mốt kiếp sau sẽ thành Phật ở cõi Ta bà này, hiệu là Thích Mâu Ni.

Người học trên văn nghĩa liền hiểu, do Phật Nhiên Đang thọ ký nên Phật Thích Ca mới được thành. Không ngờ đây là một ý nghĩa sâu xa vượt ngoài văn tự. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho được, tại sao Phật Nhiên Đang không trao cho ngay lúc đó đi mà phải thọ ký xa tít chín mươi một kiếp về sau này, lúc đó ai trao cho ai mà thành? Rồi thành với một cái hiệu là "Thích Ca Mâu Ni". Phật ở cái hiệu đó chăng ? Rõ ràng trong đây có ngầm ý chỉ: "Thành đó" là thành cái vốn sẵn có của phật Thích Ca thôi, Phật Nhiên Đăng không có trao cho một cái gì khác. Thọ ký chỉ là một phương tiện để xác chứng niềm tin vững vàng cho người, chớ không phải do thọ ký mới có được. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho, thì ngay lúc đó Phật Nhiên Đăng đã trao cho đồng tử Thiện Tuệ rồi, đâu đợi phải thọ ký xa xôi về sau! Người tu Phật không thể lầm trên điểm này!

+ Thứ hai, nói không chứng đắc là trừ sạch tướng ngã. Bời người tu mà thấy có được Đạo, được ngộ, liền có tự đắc, tự mãn, tự kiêu trở thành thiền bệnh. Đâu biết, vừa thấy có được tức có nhiễm ô rồi! Là rớt bên ngoài cửa Tổ . Do đó, nhà thiền rất cẩn thận điểm này.

Như Hòa thượng Nam Tuyền, một hôm cúng trai Mã Tổ, Sư bèn hỏi trong chúng:

- Cúng trai Mã Tổ mà Mã Tổ có đến chăng?

Không ai trả lời được. Lúc đó Lương Giới còn là Sa di, liền bước ra thưa:

- Đợi có bạn liền đến.

Nam Tuyền bảo:

- Chú nhỏ tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.

Sư liền thưa:

- Hòa thượng chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.

Cúng trai Mã Tổ, hỏi: “Mã Tổ có đến chăng?” là hỏi Mã Tổ nào? Đây là ngầm chỉ pháp thân. Pháp thân thì không hình tướng nên đâu có đến đi. Nhưng nếu một bề trống rỗng không ngơ thì để làm gì? Lương Giới đáp: “Đợi có bạn liền đến.” Nghĩa là, tuy pháp thân vốn vô tướng mà không phải là rỗng suông, không ngơ. Trái lại nếu có bạn, tức đủ duyên, người có công phu khế hợp, thì nó liền hiện, liền tự cảm nhận ngay. Sư đáp rất khéo, nên ngài Nam Tuyền khen: “Tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.” Nếu là người khác nghe vậy hẳn tự thấy hài lòng, thành mắc kẹt. Lương Giới tự biết mình, không bị lời nói bên ngoài lừa, nên thưa: “Chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.” Nếu lầm nhận tiếng khen đó để lộ tướng ngã ra, tức liền thành bệnh, chớ vội vui mừng!

Cũng như trường hợp Thiền sư Nghĩa Huyền lúc còn ở với Hòa thượng Hoàng Bá. Một hôm Sư đang ngồi trước tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, Sư liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, rồi trở về phương trượng. Sư đi theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu bên cạnh, Hoàng Bá nói với Thủ tọa:

- Vị tăng này tuy là hậu sanh lại biết có việc này!

Thủ tọa nói:

- Ông Hòa thượng gót chân chẳng chấm đất, lại đi chứng cứ cho kẻ hậu sanh.

Hoàng Bá liền tự vả miệng một cái. Thủ tọa nói:

- Biết là được.

Chỗ đặc biệt trong nhà thiền là thế. Hoàng Bá cảm hứng, thuận tiện bên cạnh có Thủ tọa liền thốt lời khen Nghĩa Huyền. Thủ tọa không khen hùa theo mà nhắc khéo. Hoàng Bá tự thấy đã nói hớ rồi, nên tự vả miệng, không để cho người tự mãn, tự đắc. Đây là những kinh nghiệm cảnh tỉnh cho người, chưa gì đã tự mãn cho mình đã ngộ cao, ngộ sâu, cần nghiệm xét.

Có vị tăng hỏi Thiền sư Cư Độn:

- Người xưa được cái gì liền thôi đi.

Sư đáp:

- Như giặc vào nhà trống.

Sở dĩ được chỗ thôi dứt, được an ổn thật sự là do đâu? “Như giặc vào nhà trống” vậy là có được cái gì ? Thấy có được cái này, có được cái nọ, chứa đầy một bụng là nguy. Nếu thấy có được là phải có mất, vì đó là chỗ cho giặc vào lấy của, thì hẳn là chưa “thôi đi” được. Phải tâm trống sạch như giặc vào nhà trống, không có gì để lấy thì nó tự bỏ đi. Cũng vậy, tâm bặt mọi niệm được mất, không chứa giữ một chút gì thì tự nó an, khỏi lo trừ dẹp. Trái lại, cứ lo tìm cầu chứa đựng đầy trong đó mà muốn an thì khó an. Ngươi muốn An phải nghiệm sâu, nghiệm kỹ chỗ này!

* KHI NÓI CÓ CHỨNG ĐẮC

Trong nhà thiền có lúc chư Tổ cũng thường nhắc nhở người tu: Phải thật tu, thật ngộ, thật chứng. Như Thiền sư Phật Giám bảo: “Tham phải thật tham, ngộ phải thật ngộ, hãy tham cứu cùng tột suốt đến đáy của giáo lý.” Vậy là thật có chứng chăng ? Bởi đây là ý các ngài muốn nhắc người học, phải có công phu thực hành chân thật, có chỗ sống vững vàng, tránh rơi vào chỗ nói lý suông, thiền trên môi lưỡi. Tức là, chỉ lấy cái hiểu của chư Tổ làm cái hiểu của mình, chỉ lo lý luận mà không được mà không có thực sống. Để gõ tỉnh cho hạng người này nên các ngài bảo phải thực tu, thực chứng đàng hoàng mới có đạo lực thắng được nghiệp phiền não. Không phải nói thế là bảo chúng ta thấy thật có chỗ chứng, chỗ đắc.

Như Vương Thường Thị đến chỗ Lâm Tế, ông đi đến trước tăng đường xem xong, bèn bảo:

- Tăng cả nhà này có xem kinh chăng?

Lâm tế đáp:

- Chẳng xem kinh.

Ông hỏi:

- Có học thiền chăng?

Lâm tế đáp:

- Chẳng học thiền.

Ông hỏi:

- Kinh chẳng xem, thiền cũng chẳng học, cuối cùng làm cái gì?

Lâm tế đáp:

- Thảy dạy họ làm Phật, làm Tổ.

Người mới nghe qua, thấy có cao mạn hay không? Chỉ dạy làm Phật, làm Tổ thôi là sao? Đây là đánh thức tâm niệm lo đeo đuổi theo bên ngoài, bám vào công phu rỗng suông sanh diệt, phải thực sống trở lại sức sống chân thật. Làm Phật, làm Tổ đâu phải là chuyện nói suông mà được? Người không hiểu, lầm chấp theo chữ nghĩa, cho ta là tu cao làm Phật làm Tổ thôi, trở thành kiêu mạn, tự đắc, đó là bệnh. Cho nên chư Tổ thường nhắc: “Mạt vàng tuy quý, rơi vào tròng mắt cũng thành bệnh.” Mắt vốn là torng sáng, không chấp nhận chứa thêm một chút gì nữa. Bụi rơi vào cũng bệnh mà mạt vàng rơi vào cũng bệnh. Kinh Lăng Nghiêm Phật đã ân cần nhắc rõ: “Nếu khởi cái hiểu Thánh tức rơi vào bọn tà. Chẳng khởi tâm Thánh tức là cảnh giới lành.” (Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà. Bất khởi thánh tâm tực thiện cảnh giới.)

Vừa khởi tâm chứng Thánh. Thấy mình là Thánh tức đi lệch ra ngoài rồi, là tạo cơ hội cho bọn ma xen vào, phá hoại huệ mạng của mình. Đó là điều phải luôn luôn nhớ! Do đó, các ngài nói “được” nhưng không cho chúng ta chấp có “được”, nhằm khiến mình quên công phu tạo tác, tự thể nhập tự tánh sẵn có muôn thuở. Bởi vậy, tuy thực chứng thực đắc không nghi ngờ, mà không thể lầm cho là thật có chỗ được, người học phải nhận kỹ!

Hòa thượng Hoáng Bá từng bảo: “Giả sử ông tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái SẴN CÓ ” Ngài Hoàng Bá xác định rõ ràng, dù người công phu lâu dài trải qua thời gian cả ba vô số kiếp, cùng người ngay một niệm hiện tiền đây chứng được, cũng chỉ là chứng cái sẵn có nơi mình thôi, kỳ thật không có cái gì thêm bớt sai khác. Bởi bao nhiêu công phu lâu dài kia cũng chỉ là "trở về chỗ sẵn có" này thôi. Nếu khởi một niệm “TA có cái riêng được hơn người” tức liền mê ngay!

III CĂN BẢN ĐÁNH THỨC TRỞ LẠI CÁI ĐANG HIỆN HỮU MÀ BỎ QUÊN

Nói “được”, nói “không có được” cũng là lời nói hai đầu, điểm cốt yếu trong đây là đánh thức cái chân thật đang hiện hữu nơi mình mà người tự bỏ quên. Nhận ra chỗ này liền ró nói “được”, nói “không có được” cũng thừa.

Kinh Lăng Nghiêm có dẫn chuyện Diễn Nhã Đạt Đa quên đầu. Một hôm Diễn Nhã Đạt Đa soi gương, thấy đầu mình torng đó đáng yêu biết mấy, chợt úp gương lại, không thấy bóng đầu mình đâu nữa, bèn phát cuồng chạy kêu: “Tôi mất đầu! Tôi mất đầu!” Câu chuyện chắc chắn có nhiều người nghe quá quen thuộc, có thể không muốn nghe lại. Song người thật sự có cảm nhận được ý nghĩa sâu xa trong ấy không mới là điều quan trọng! Đầu ở trong gương, úp gương lại không thấy, la mật đầu, phải nói sao đây? Đó là người gì? Chúng ta hiện tại có giống như thế chăng? Khi tâm nghĩ ngợi lăng xăng nói có tôi. Nghĩ ngợi lăng xăng lặng yên, liền bảo “mất tôi” rồi suy tìm! Thật quá lầm to! Có khác nào Diễn Nhã Đạt Đa ôm đầu chạy la mất đầu ? Vậy ngay khi Diễn Nhã Đạt Đa chạy la mất đầu đó, làm sao cho y tỉnh lại? Chỉ cần “cú” mạnh vào đầu y bảo: “Đây là gì ?” liền tự biết đầu vẫn còn nguyên có mất đi đâu! Như vậy, chính khi y chạy la mất đầu đó, cái đầu có mất chăng? Khi bị cú đầu tỉnh lại, có được chăng? Rõ ràng được mất chỉ là lời thừa.

Thanh Nhuệ, một hôm đến thưa với Hòa thượng Tào Sơn:

- Thanh Nhuệ nghèo thiếu xin thầy cứu giúp!

Tào Sơn bảo:

- Xà Lê Nhuệ! Hãy đến gần đây!

Thanh Nhuệ đến gần, Sư bảo:

- Ba chén rượu nhà họ Bạch ở Thanh Nguyên đã uống xong, còn nói chưa dính môi.

Thanh Nhuệ bảo nghèo thiếu, nhưng gọi đến gần, BIẾT đi đến gần thì có thiếu cái gì, lại than nghèo? Vì vậy Tào Sơn bảo: “Đã uống xong ba chén rượu, còn nói chưa dính môi” thật mâu thuẫn! Việc ấy quá rõ ràng như vậy, tại sao lại chối bỏ chẳng nhận? Nhận ra thì tự đầy đủ khỏi nói được mất.

Nếu người còn chưa rõ thì hãy nghe Hy Thiên đến gặp Thiền Sư Hành Tư ở núi Thanh Nguyên. Hành Tư hỏi:

- Ông từ phương nào đến ?

Hy Thiên thưa:

- Dạ, con từ Tào Khê đến ?

Hành Tư hỏi:

- Đem được cái gì đến ?

Hy Thiên thưa:

- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.

Hành Tư bảo:

- Mặc tình dùng đi, đến Tào Khê làm gì?

Hy Thiên thưa:

- Nếu không đến Tào Khê đâu biết chẳng mất.

Quả thật, việc ấy vốn sẵn có, không đợi đến Tào Khê đợi chư Tổ chỉ bày mới có. Tuy nhiên nếu không đến Tào Khê, không nhờ chư Tổ chỉ bày, các thiện tri thức khơi dậy cho thì cũng không biết. Điều quan trọng là nếu trong đây thấy thật được, thật mất đều mê.

Như vậy, việc này không thể một bề nói cố định là có được, cũng không thể một bề nói cố định là không được, cốt yếu là người "NHẬN RÕ  việc này" là xong, khỏi kẹt có không hai đầu.

IV. BẶT NIỆM PHÀM THÁNH, SẠCH KIẾN GIẢI.

Đến chỗ tột lý thiền là dứt bặt hết ý niệm phàm thánh, sạch mọi kiến giải có khôgn đối đãi, trả lại tâm bình thường như thuở ban đầu chưa sanh, chưa có chút gì vay mượn. Đến đây mà còn một niệm phàm thánh đọng lại trong ấy tức còn bị quét.

Hãy nghe Hòa thượng Nam Tuyền sắp tịch, vị Đệ nhất tòa hỏi:

- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, sẽ đi về đâu?

Sư bảo:

- Làm con trâu dưới núi.

Đệ nhất tòa thưa:

- Con theo được chăng?

Sư đáp:

- Nếu ông muốn theo ta, phải ngậm theo một bó cỏ.

Ngươi mới nghe, có thấy lạ chăng? Tại sao tu hành như Sư mà sau khi chết lại làm con trâu? Thật là khó hiểu! Song chính chỗ không hiểu nổi của người, lại là chỗ sống của các ngài. Bởi Sư trong lòng thật rỗng rang sạch hết niệm phàm thánh mới nói được như thế. Đâu phải nói làm con trâu liền thành con trâu. Người theo ngôn gnữ sanh hiểu là lầm. Trong đây, người muốn thấy được chỗ đi của Sư lòng phải rỗng sạch mọi niệm sở đắc mới cảm thông được. Vì vậy vị Đệ nhất tòa hỏi: “Con theo được chăng?” thì Sư bảo ngay: “Nếu muốn theo phải ngậm theo bó cỏ”. Tức là, cũng phải sạch mọi kiến giải phàm thánh, có không, được mất trong lòng. Nói trắng ra, trong tâm không còn dấu vết để thấy.

Trong kinh Duy Ma Cật, Tôn giả Xá Lợi phất hỏi thiên nữ:

- Còn bao lâu nữa thì cô sẽ đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Thiên nữ đáp:

- Nếu như ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu, chừng đó tôi mới thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tôn giả nói:

- Tôi làm phàm phu, không có lẽ đó.

Thiên nữ nói:

- Tôi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không có lẽ đó. Tại sao? Vì Bồ đề không có chỗ trụ cho nên không có chỗ được ấy.

Tôn giả hỏi:

- Hiện nay chư Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chư Phật đã được, chư Phật sẽ được nhiều như số cát sông Hằng, những việc như vậy sẽ nói thế nào ?

Thiên nữ đáp:

- Thảy đều do văn tự thế tục ghi chép nên nói có ba đời, chớ chẳng phải Bồ đề có đời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Chú ý! Nói có Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lại đựơc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là do văn tự thế tục mà nói, không phải lý cứu cánh. Bởi Bồ đề mà có đã được, đang được và sẽ được tức thuộc về vô thường theo thời gian, không phải chân thật Bồ đề. Nói sẽ được, tức hiện giờ chưa có, sau này mới có hay sao? Cho nên người vừa thấy có được Bồ đề, liền mất Bồ đề. Đây là khiến người quên bặt niệm được mất, sạch hết kiến giải về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tự sống trong đó rồi, còn được gì nữa? Vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ở ngay tâm người, không có ở đâu khác mà được. Người chưa quên cái hiểu về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức còn cách biệt với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thể chối cãi.

Với ý nghĩa trên, khi Linh Huấn từ giã Hòa thượng Quy Tông đi, Quy Tông bảo:

- Ông đi đâu?

Linh Huấn thưa:

- Đi về Lãnh Trung.
Quy Tôn bảo:

- Ông ở đây nhiều năm, sửa soạn hành lý xong hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật pháp cao tột.

Linh Huấn thu xếp hành lý xong, liền đến trước Quy Tông. Quy Tông bảo:

- Hãy đến gần đây!

Linh Huấn đến gần. Quy Tông bảo:

- Trời lạnh, đi đường hãy bảo trọng!

Sư nghe lời này liền quên hết chỗ hiểu trước.

Ai thấy Phật pháp cao tột ở chỗ nào? Bởi Linh Huấn ở đây nhiều năm, tức đã có nhiều kiến giải rồi. Hòa thượng Quy Tông khéo léo khêu gợi lòng mong mỏi của Linh Huấn. Nghe nói Phật pháp cao tột, Sư hẳn tưởng sẽ nghe được một câu gì đó thật tuyệt điệu. Không ngờ đến lúc ấy, chỉ nghe một câu bình thường giản dị, dường như không có gì là Phật pháp cả, chỉ là lời chúc lên đường thôi! Bao nhiêu mong đợi liền cắt đứt. Ngay đó Sư quên hết mọi chỗ hiểu từ trước, trả lại một tâm nguyên vẹn thuở nào, chưa từng xen ý niệm gì khác. Chỗ sống của Thiền là đấy! Còn đòi hỏi cái gì thêm nữa? Ai ai cũng đều có một chỗ sống chân thật nguyên vẹn ấy, sao lại không nhận, lại cứ lo đuổi tìm Hiểu Biết này nọ lăng xăng để Tạo Thành cái tri kiến ngã mạn, kiêu căng, rồi tự hào trên đó lấy làm của mình? Nên nhớ, đối trong lý tột của Phật pháp, vừa thấy có TA HIỂU, TA BIẾT, là ngay đó rơi vào đường tà rồi. Không tỉnh ngộ, lại còn bảo vệ nó nữa, là cách xa Phật pháp dù nói hay cách mấy! Người có đạo tâm chân thật không thể mê mờ điều này!

V.TÓM KẾT

Tu thiền là sống lại ngay chính mình từ thuở nào, không có thêm cái gì khác nữa. Dù nói chứng, nói đắc cũng là danh từ thôi, không thể ở trên những cái tên đó mà sanh tâm chứng đắc là Mê. Bởi ai ai cũng đều đang sống trong cái Ngã Tướng, nên luôn luôn thấy có một cái TA đi theo bên mình, do đó thường thấy có được, có mất. Cái gì được mất? TA được, TA mất chứ gì? Nếu thật sự quên cái TA đi, dứt sạch ý niệm sai lầm đóng khung trong cái ta tưởng tượng ấy, đã không có ta thì lấy gì được mất? Ngay đó liền tự giải thoát, tự tại đi trong thế gian không thể nghĩ bàn.

Kìa Động Sơn hỏi Hịa thượng Long Sơn:

- Hòa thượng được đạo lý gì bèn về ở núi này?

Hòa thượng Long Sơn đáp:

- Ta thấy hai con trâu đất húc nhau nhào xuống biển, thẳng đến nay bặt hết tin tức.

Vậy là Hịa thượng Long Sơn đã được cái gì? Động Sơn hỏi được gì, là muốn nghiệm xét chỗ chứng, chỗ sống của Sư thế nào. Gặp Sư thì chỗ thấy dứt bặt dấu vết, tin tức cho người thấy được. Hai con trâu húc nhau nhào xuống biển mất hết tin tức, là bặt dấu vết chủ khách, chỗ nào có thể dòm lén ? Chính đó mới là chỗ sống thực của thiền sư. Còn người cứ lo phô bày kiến giải của mình, khiến người vừa nghe đã thấy tin tức rồi, đó là dấu vết tướng Ngã lộ bày, phải khéo soi trở lại !

Chuyện Nam Tuyền thăm Trang sở là một ý nghĩa sâu sắc để cảnh tỉnh chỗ này. Một hôm Sư đến thăm Trang sở, Trang chủ chuẩn bị nghinh đón đàng hoàng. Sư hỏi:

- Lão tăng bình thường ra vào chẳng cho người biết, tại sao hôm nay có việc bày biện thế này?

Trang chủ thưa:

- Hơm qua thổ địa mách sáng nay có Hòa thượng  đến.

Sư nói:

- Vương lão sư tu hành vô lực, bị quỷ thần trộm thấy.

Thị giả hỏi:

- Hòa thượng là thiện tri thức, vì sao bị quỷ thần trộm thấy?

Sư bảo:

- Trước thổ địa để một phần cơm.

Như vậy Nam Tuyền tu hành còn dở phải chăng? Người nhiều kiến giải sẽ cho là như thế, vì còn bị quỷ thần trộm thấy. Không ngờ chính mình còn mê! Bởi nghe Nam Tuyền bảo: “Vương lão sư tu hành vơôlực, bị quỷ thần trộm thấy.” bèn sanh hiểu, nghĩ là Sư tu còn dỡ, vậy mình hay hơn chớ gì ? Đâu biết, Nam Tuyền nói như thế, là ý ngầm nhắc người tu thiền chớ có thấy theo chỗ thổ địa thấy đó, mà phải thấy đến chỗ thổ địa không thể thấy kia kìa! Thấy được chỗ này mới thật thấy được ta! Bởi vì thổ địa thấy đó, là có thật thấy Nam tuyền chăng? Đó chỉ là cái thấy bóng của Sư thôi. Nếu người đến với Sư mà cứ thấy theo thổ điạ là thấy trộm, là dòm lén, tức thấy tà, chớ không phải thật thấy được Sư. Yù Nam Tuyền là như thế! Chớ vội đem tâm phân biệt của phàm phu mà phê bình hay dở, là phô bày chỗ mê của mình!

Vậy cuối cùng tu thiền có chứng đắc hay không ? Đây xin dẫn vị tăng với tôn giả Nghiêm Dương để mọi người tự rõ.

Tăng hỏi Tôn giả Nghiêm Dương:

- Phật là gì?

Sư đáp:

- Cục đất.

Hỏi: - Phật là gì?

Đáp: - Đất lăn.

Hỏi: Tăng là gì?

Đáp: Ăn cháo, ăn cơm.

Mặc cho mọi người có bao nhiêu kiến giải hiểu biết hãy đem ra hiểu xem! Cuối cùng, câu trả lời ở đâu? Đây là phần để dành lại cho mọi người!

[ Quay lại ]