headertvtc new


   Hôm nay Thứ bảy, 23/11/2024 - Ngày 23 Tháng 10 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

khanhtueSuOng2024

Phật học phổ thông: Khóa V- Bài 6: Mười tông phái ở Trung Hoa: Luật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông

BoDeDatMa2- HT Thích Thiện Hoa -

Không phải riêng gì Ðạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo với thời gian và sự phát-triển, đều có chia ra nhiều tông phái. Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn cơ và hoàn cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu không, thì đạo không thể phát-triển được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn một tôn giáo nào cả, Ðạo Phật không có những giáo điều thần khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khoáng, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Ðạo Phật đi đến đâu cũng có thể phát-triển đúng theo căn cơ và hoàn cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà Ðạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi lan tràn trên các nước.

Riêng ở Trung Hoa, Ðạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngoài giáo pháp của Phật cả. Những tông phái này cũng như những con đường khác nhau, có đường thẳng đường cong, đường cao đường thấp, đường rộng đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả tùy theo trình độ, trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả.

Mười tôn phái ở Trung Hoa là: Luật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông, Pháp tướng tông, Mật tông, Thiên thai tông, Hoa nghiêm tông, Tam luận tông, Câu xá tông và Thành thật tông.

Trong 10 này, Câu xá tông và Thành thật tông chủ trương về Tiểu Thừa; Luật tông và Thiền tông thông cả Ðại và Tiểu Thừa, còn 6 tông kia thuộc về Ðại Thừa.

 

Nghĩa lý của các tông rất mầu nhiệm kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu, công phu trong nhiều năm trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tông được. Ở đây, chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tông ấy, để có chổ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn, chúng ta sẽ đi sâu vào từng tông phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình mà lựa một trong những tông ấy để tu hành.

 

1. Luật Tông

I.- Duyên Khởi Lập Tông

Tông này dùng luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Luật tông. Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều loại giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài, như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là ”Bát thập tụng luận “. Về sau, tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ luật riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.

Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tông. Ngài Ðạo Tuyên là người ở Chung nam sơn, nên người đời gọi tông này là ” Chung nam sơn” để phân biệt với các Luật tông khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ, hay Ngài Hoài Tố ở Ðông pháp.

Trong các Tông này, chỉ có Luật tông của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Ðại Thừa lẫn Tiểu Thừa.

II.-Tôn Chỉ Và Ðặc Ðiểm Của Luật Tông

Phàm một tổ chức, một công việc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta:

-Giữ giới không sát nhân hại vật, hiện người không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và khỏi bị người giết hại đó là tu.

-Giữ giới không trộm cướp thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm siềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giựt của cướp nhà, đó là tu.

-Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.

-Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu.

-Giữ giới kghông cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí tuệ tăng trưởng, đo là tu.

Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi và thêm được một điều lành; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát.

Nhờ giữ “giới luật” không làm các việc tội lỗi, nên tâm được “định”; do tâm định nên phát ra ”trí huệ sáng suốt”. Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật.

Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chính. Người xuất gia thọ Sa-di, có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ-kheo có giữ giới mới phải là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ Tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba món vô-lậu học (giới, định, huệ ), “giới” đứng đầu tất cả.

Tông này sỡ dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chín chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên.

III.- Các Loại Giới Luật

Giới luật có nhiều loại từng bậc, tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai loại lớn là: Giới luật của Ðại Thừa và giới luật của Tiểu Thừa.

-Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu Thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham, mà người khác cũng được lợi là khỏi phải bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu-thừa, vì trong khi giữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại-gia), Bát-quan-trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia-tập sống như người xuất gia), Sang-di giới và Sang-di-nhiều giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức-xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ-kheo giới (250 giới), và Tỳ-kheo nhiều giới (348 giới) là những giới thuộc về phái Tiểu-thừa.

Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhằm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi tì thuộc về Ðại-thừa giới. Những giới thuộc về Ðại-thừa giới như 10 giới trong 48 giới khinh của Bồ Tát, Tam-tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp-luật-nghi giới là giới không làm việc ác, Nhiếp-Thiện-Pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu-ích hữu-tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v..).

Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới-luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn đứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo thiện-nghiệp.

1.-Về chỉ trì: có hai bộ giới bổn:

a.-Tỳ-kheo giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1.- Ba-la-di (4 giới), 2.-Tăng-tàng (13 giới), 3.-Bất-định (2 giới), 4.- Xã-đọa (30 giới), 5.- Ðơn-đọa (90 giới), 6.- Ðề-xà-nhiều (4 giới), 7.- Chúng-học (100 giới), 8.- Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).

b.-Tỳ-kheo-nhiều giới bổn (giới của Tỳ-kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là:

1.-Ba-la-di (8 giới), 2.- Tăng-tàn (17 giới), 3.-Xả-đọa (30 giới), 4.-Ðơn-đọa (178 giới), 5.-Ðề-xà-nhiều (8 giới), 6.-Chúng-học (100 giới), 7.-Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm mươi bốn tám giới này, có thể chia là bảy loại như trên, nhưng củng có thể làm tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại, bảy loại như bên tang (1).

Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-nhiều giới trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới-hạnh, phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó chỉ là giới tóm thâu những giới-luật chính, làm giềng-mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới-luật thì về “lượng” sánh đồng hư-không, về “cảnh” lại nan khắp cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai-nghi và 120.000 tế-hạnh.

Vì sao Phật lập ra nhiều giới-luật như thế ?

– Vì mỗi một giới là ngăn ngừa tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa.

2.- Về tác trì, gồm có 20 kiền-độ.

Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda).

20 Kiền độ là:

Thọ giới Kiền độ

Thuyết giới Kiền độ

An cư Kiền độ

Tứ tự Kiền độ…

Sự chia ra chủ trì và tác trì là cốt lõi dễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong ”chỉ” có ”tác”, trong ”tác” có ”chỉ”, không thể nói một cách dứt khoát được.

(1) Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.

IV.-Các Danh Từ Và Phương Pháp Thực hành

Như chúng ta đã thấy ở trên, giới-luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:

1.-Sao gọi là ”danh, chủng, tánh, tướng” ?.

a.-Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v…

b.- Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..

c.-Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v.. hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ”giới tánh”.

d.- Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là ”giới tướng”.

Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy là gì (danh), sát hay đạo .v.v..? thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v..? thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tôi ấy, theo luật phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh ?

2.- Sao gọi là ” khai, giá, trì, phạm” ?

a.- Khai là mở, cho làm.

b.- Giá là cấm, không cho làm.

Như khi Phật còn tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ”Giá” . Nhưng về sau có vị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ”nếu có duyên sự thì được leo cây”, như thế gọi là ”Khai”.

Một thí dụ thứ 2: người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó là ”Giá”. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Ðó là ”Khai”. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng.

c.- Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là ”Trì”.

d.- Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ”Phạm”.

Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới-luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi hành vi hàng ngày của mình xét xem một cách sáng suốt, thế nào là ”Trì”, thế nào là ”Phạm”; trong trường hợp nào, và giới nào được ”Khai”; Trong trường hợp nào, và giới nào không được ”Khai”.v.v.. nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải ”Trì”. Nếu không ”Trì” mà ”Phạm”. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể ”Khai” mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiểm ô, vì phiền nảo thúc đẩy mà ”Khai” là ”Phạm”.

3.-Sao gọi là ”chỉ trì, tác phạm và tác trì chỉ phạm”?

a.- Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác, quyết giữ gìn không gây tội lỗi.

b.- Tác phạm là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.

c.- Tác trì là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, là phạm giới.

d.- Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.

Thí dụ: về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.

4.- Sao gọi là ” tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới” ?.

a). Tánh tội là tội sẳn có trong bảng tánh chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tánh này có sẳn trong tâm tánh chúng sanh từ vô thỉ đến nay, hể có chúng sanh là có chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.

b). Giá tội là tội không sẵn có trong bản tánh nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả.

c). Tánh giới là để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng cũng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sự tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.

d). Giá giới là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh là huân tập mà phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tiên phải chặt ngành ngọn; như người dùng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đô thị ấy.

V.-Kết Luận

Như chúng ta đã rỏ, mục đích của giáo pháp mà Ðức Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và thành Phật.

Luật tông củng không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác phần nhiều các tông khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tông trái lại chủ trương; hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hảy giữ gìn giới luật phải nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đa thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.

Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc-chắn ! những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới củng chẳng khác gì trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẽ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thần, thì củng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì lu, nhưng không tắt thì càng cháy lâu cáng sáng tỏ.

Vì những lí lẽ trình bày ở trên, Luật tông đều phải thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình , không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa , nhưng lại dễ thành công trên đường đời cũng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hà tiện (đi gánh phân ) và một căn trí thấp thỏi như Ngài Ưu-Ba-Li !Thế mà Ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu-Ba-Li, lẽ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như Ngài , nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới-luật như Ngài .

2.-Tịnh Ðộ Tông

Tông này thuộc về Ðại- thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật đẻ được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A-DI-Ðà. Do đó, tông này mới có tên là Tịnh độ tông.

Ðây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, cũng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tông này là môt đại lộ bằng phẵng, rộng rãi, mát mẽ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường.

Bởi những lẻ ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt nam chúng ta, ngày xưa cũng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tông này. Ðó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để giới thiệu ”con đường tu thứ hai” trong mười tôn phái của Phật Giáo.

1.- Duyên Khởi Lập Tông

Tịnh độ căn cứ vào những kinh điền gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn đã y- cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Ðó là các bộ:

1.-Kinh vô lượng thọ: Kinh này được chép lại 48 lời thề nguyện của đức A-Di-Ðà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương Thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh về cõi tịnh độ của Ngài.

2.- Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.

3.- Kinh tiểu bổn A-Di-Dà: Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ”trì dân niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi ấy.

Ba kinh trên này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là ” ba kinh Tịnh độ”. Ngoài ra còn có các kinh khác như:

Kinh Bửu tích chép việc đức Phật vì vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn ”trì dân niệm Phật” để cầu sanh về Thế giới Cực lạc.

Kinh đại bổn A-Di-Dà, Kinh Thập lục quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa nghiêm.v.v..

Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông-tấn nhờ Ngài Huệ-viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tông này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Ðàm loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện-đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

II. Bốn Cõi Tịnh Ðộ.

Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:

1.- Thường tịch quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ”Thường” là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; ”Tịch” là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; ”Quang” là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ”Thường tịch quang Tịnh độ”.

Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ”thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh”, nên gọi là ”Thường tịnh quang Tịnh độ”. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Ðộ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ”Pháp Thân”, còn về độ, thì gọi là ”Thường tịch quang Tịnh độ”.

Kinh Tinh danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ”Thường tịch quang Tịnh độ”.

2.- Thất-báo trang nghiêm Tịnh độ: hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn- thật nên gọi là ”Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ”. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán-vô-lượng -thọ về lời sớ có chép: ”Tu-tập chơn-thật”, cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ”Thật báo trang nghiêm”. Bên Ðại-thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Ðại-thừa Biệt-giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Ðẳng giác Bồ Tát.

3.-Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến-hoặc và tư-hoặc trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới và Vô-sắc-giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là ”hữu-dư ”. Ðã là ”hữu-dư ” tức là chưa phải hoàn toàn cứu-cánh, nên gọi là cõi Tịnh độ này là ” Phương-tiện hữu-dư Tịnh độ ”.

4.- Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của Ðưc Phật A-di-đà ở Tây-phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng-sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ”Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ”.

Vì phần đông tín-đồ Phật Giáo Việt-Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh ”Tiểu bổn A-Di-Ðà” thuật lại lời Ðức-Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ”…Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực-lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế-giới ấy là Phật A-di-đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.

Trên không trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng phát nhiệm mầu.

Cảnh giới Cực-lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành chữ A-Di-Dà người Trung Hoa dịch là ”Vô lượng thọ”, hay ”Vô lượng quang”, nghĩa là đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường.

(1) Chữ A-Di-Ðà, người Trung Hoa dịch là “vô lượng thọ” hay “vô lượng quang”, nghĩa là Ðức Phật này sống lâu không lường và hào quang chói sáng cũng không lường

III.- Ba Yếu Tố Ðể Cầu Sanh Tịnh Ðộ

Muốn được vãng-sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư-lương (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món ăn nào, hành-giả cũng không thể tu hành có kết quả được.

1.-Thế nào là ”Tín” ? - Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được Ðức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: ” Tin là mẹ sanh ra các công đức ”. Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được.

Tin có ba phần:

a). Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sang thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin răng do lòng từ-bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được chúng sanh vãng-sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Ðức-Phật Thích- ca không hư đối, Ðức-Phật A-Di-Ðà và cảnh Tịnh độ đều có thật.

b). Tin Pháp: Tin rằng pháp-môn niệm Phật là pháp-môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyền của Phật A-Di-Ðà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng-sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.

c). Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp-môn này. Tin rằng nếu mình thực-hành đúng như lời Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A-Di-Ðà, chuyên trì danh hiệu Phật A-Di-Ðà cho đến ” nhất tâm bất loạn” thì khi lâm-chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.

2.-Thế nào là ”nguyện” ? Nguyện là lời hứa-hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đến mục đích.

Nguyện quan trọng như thế, nên hành-giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp-môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.

Ðể có một ý-niệm về chữ ” nguyện ”, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A-Di-Ðà, khi còn làm Pháp-tạng Tỳ-Kheo:

-” Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh-pháp ”.

-” Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp-giới phát tâm Bồ-Ðề, tu các công đức, một lòng phát-nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, gia như ta không cùng với đại chúng đoanh vây hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh-giác ”.

” Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác ”.

3.-Thế nào là ”Hành” ?- Hành là thực-hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện, Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ củng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng-sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.

IV.-Phương Pháp Tu Về Tịnh Ðộ

Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật cũng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ìt phương pháp sau đây:

1.-Trì-danh niệm Phật: -Trong lối niệm Phật này, hành-giả chỉ chuyên tâm trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Ðà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngũ, hành-giả phải chớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngũ, hành-giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải xem phương pháp ” Kinh hành niệm Phật ” (xem nghi thức kinh hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành-giả đều hồi hướng cầu sanh Tịnh độ.

2.- Tham-cứu niệm Phật: -Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm ” Nam-mô A-Di-Ðà Ðà Phật ”, hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâm chú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng-tưởng dần dần chìm lặng, nước hiện tâm hiện bày, hành-giả được ” nhất tâm bất loạn ”, đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh-giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu ” thoại đầu ” bên Thiền-tông, nên gọi là ” tham-cứu niệm Phật ”.

3.- Quán-tương niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật.

Hành-giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà liên tưởng các đức-tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ-xã của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành-giả phai dần; nhờ quán từ-bi của Phật mà tánh Sanh của hành-giả bớt dần …Hễ quán thêm một đức-tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành-giả được bớt đi. Tánh của Ðức-Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành-giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ-bi, hỷ-xả, bình-dẳng, lợi tha được huân-tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành-giả sẽ thanh-tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng-sanh về cõi Phật.

4.-Quán-tưởng niệm Phật:- Trong lối tu này, hành-giả ngồi yên một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành-giả quán tưởng như có Ðức-Phật A-Di-Ðà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành-giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, củng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn. Hành-giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi củng không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần-thục. Khi lâm chung, hành-giả chắc chắn sẽ được vãng-sanh về Tịnh độ.

Trong kinh Quán Phật tam-muội chép rằng: ‘Phật vì Phụ-vương, nói pháp quán-tưởng bạch hào …”. Quán-tưởng bạch-hào nghĩa là quán-tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Ðây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.

5.-Thật tướng niệm Phật:- Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là ”thật tướng “.

Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm ( thật tướng niệm Phật ) là thuộc về lý: không còn, niệm còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.

Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu, không vô. Ðến chỗ này, kinh Di-Ðà gọi là ”được nhất tâm bất loạn”. Kinh Tứ thập nhị chương chép; “niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm”.

Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, củng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.

V.-Lợi Ích Của Pháp Niệm Phật

Lợi ích của pháp niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý.

1.-Lợi ích về Sự:

a) Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não.

Những người gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường v.v ..sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khỗ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có kết quả tốt đẹp như thế ? Vì tâm ta cũng như dòng nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chát thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nhgĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Ðem sự nhớ Phật này thế cho cái nhớ sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm Phật thì đổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ gỉảm đi chừng âý. Cho nen cổ nhân có câu”Một câu niệm Phật giải oan khiên”.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm Phật nảychi cho một số người sầu khổ gần như điên cuồng, vì sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả rất là tốt đẹp.

b) Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh.

-Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v ..miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu xa. Ðó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi nừava thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phậtsẽ trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch.

c.-Niệm Phật sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn.-Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một phần củng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúbg ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thâm tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sựhồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được,ngủ yên và bệnh mau bình phục.

d.-Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ:-Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được.nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy.

đ) Niệm Phật, khi lâm chúng ẽ được sanh về Tịnh độ.-Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thẻ chât lãn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến ” nhất tâm bất loạn” thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ,được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tụctu hành cho đến quả Phật.

2.-Lợi ích về Lý:

Khi hành giả niệm Phật được “nhất tâm bất loạn”, thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là “Thường”, chơn tâm thanh tịnh vắng lặng là “Tịch”, chơn tâm sáng suốt vô cùng là ” Quang” cảnh “Thường-Tịch-Quang Tịnh-độ” chỉ ở nơi chơn tâm ta, chứ không nơi đâu khác.

Lại nữa, chơn tâm không hoại diệt là ” Phật Vô-lượng-thọ”; chơn tâm chiếu soi vô tận là “Phật Vô-lượng-quang” và đó cũng tức là “Thanh -tịnh diệu pháp thân của Phật A-Di-Ðà”.

Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A-Di-Ðà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép:”Tự tánh Di-Ðà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.

Xuyên qua các đoạn trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật A-Di-Ðà, có cảnh Tịnh độ mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên.

VI.- Sự Quy Ngưỡng Và Cầu Sanh Tịnh Ðộ Của Các Vị Bồ Tát Và Tổ Sư

Chúng ta đừng tưởng rằng Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị chỉ dành riêng cho những người căn trí thấp-thỏi, hẹp hòi tu hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi hành-giả có một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ tát và Tố sư đã được thực hành pháp-môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn thù là vị Bồ tát có một trí tuệ tối-thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng phát nguyện sanh về nước Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà như sau:

Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời

Tận trừ nhất thế chư chướng- ngại

Diện kiến bị Phật A-Di-Ðà

Tức đắc vãng-sanh An-lạc sát.

(Tôi nguyện đến khi lâm- chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được Phật A-Di-Ðà, liền được vãng -sanh về cõi Cực-lạc).

Các vị Bồ tát như Ngài Phổ Hiền, Quán-Âm, Ðại-Thế-Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ.

Các vị Tổ ở các tôn khác, mặc dù hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về Tịnh độ. Như Ngài Thiên-Thân, tổ của Duy- thức tôn; Ngài Trí-giả đại- sư, tổ của Thiên -Thai tôn; Ngài Hiền-thủ, tổ của Hoa -nghiêm tôn; Ngài Nguyên -Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn; Ngài Mã-Minh, Long -Thọ, tổ của Thiền-tông v.v.. .cũng đều thực hành pháp môn Tịnh độ.

Sau nữa, các vị Ðại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như Ngài Ðàm Loan, Ngài Ðạo Xước, Ngài Thiện đạo, Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp-Chiếu, Ngài Thiếu-Khương, Ngài Tĩnh-Am v.v..đều dùng pháp-môn này để tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

VII.- Kết Luận.

Chúng ta đã biết qua tôn-chỉ, đặc điểm phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh- độ tôn. Ðến đây chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực lợi ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương pháp khác. Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng ta đừng chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ công- phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư-lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh-tấn thực-hành các phương pháp niệm Phật.

Với thái độ thiết tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ ”Nhất tâm bất loạn”.

3.- Thiền Tông

A.-Mở Ðầu

Thiền tông thuộc cả Ðại Thưà và Tiểu Thừa cũng như bao nhiêu tông phái khác trong Phật Giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tông vẫn là đức Phật. Trước Ngài, sự tham thiền nhập định của các ngoại đạo không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương pháp thiền định mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch sử của Ngài, sau khi xuất gia, đức Phật đã trãi qua nhiều năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà chính phải tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài . và từ đó, luôn trong 49 ngày đêm dưới cội Bồ Ðề, Ngài đã ngồi tham thiền nhập định cho đến khuya mồng 8 tháng chạp âm lịch, lúc sao mai vừa mọc thì Ngài “Minh tâm kiến tánh”, chứng được đạo quả Bồ -đề,. Ðó là một cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tông giáo riêng đã được thành lập. Ðó là Thiền tông.

Sao gọi là Thiền tông?-Thiền tông là một tông phái của Phật Giáo lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.

Chữ “Thiền” là do chữ “Thiền-na”, một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa và dịch nghĩa là định lự (định các tự lự). Hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định.

Có chỗ giải: Chữ ” Thiền”, xưa dịch tư là ” tư duy”, nay dịch là ” Tịnh lự”. Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm đối tượng của tâm thức (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.

Chữ “Ðịnh” nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là Tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn.

Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh, chúng ta có một nghĩa chung như sau: Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chơn lý.

Phương pháp thiền định có hai cách:

1.-Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là ” Tham thiền”, như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v..

2.-Tập trung tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì như quán bất tịnh, quán từ bi v.v..nên cũng gọi là ” Quán tưởng”.

Có chỗ gọi là tu ” Chỉ quán ” hay tu ” Ðịnh huệ”. Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tức là định. Quán là quan sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ.

“Chỉ” là nhân, mà “Ðịnh là quả.

” Quán là nhân”, mà “Huệ ” là quả.

Chủ Trương Của Thiền Tông

Tất cả chúng sinh, trãi qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sanh-tử luân hồi vì bị vô minh mê hoặc.

Tại sao lại có vô minh mê hoặc ? chúng ta hằng ngày bị thất-tình (1), lục-dục (2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị thổi leo lét, không sáng tỏ được, để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh vật. Ðèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục-trần (4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh sáng trí huệ không thể tỏa ra; và ánh sáng trí huệ không tỏ sáng, nên không xé tan được mây vô-minh hắc ám ở chung quanh và không chiếu soi chân lý của vũ-trụ.

———————————————————-

(1) Thất-tình: Mứng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn.

(2) Lục-dục: Những sự tình dục do lục-căn sanh ra.

(3) Bát-phong: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

(4) Lục-trần: Sáu trần-cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Vậy hành-giả muốn rỏ chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành Phật, thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh hắc ám, hành-giả phải làm sao cho đèn trí huệ của mình được sáng tỏ. Muốn thế hành-giả phải tu thiền-định. Tâm có định, mới phát sinh trí-huệ. Trí-huệ có phát sinh mới phá trừ được vô minh hắc ám, và với minh tâm kiến tánh thành Phật.

Mới nghe qua chủ trương của Thiền-tông, chúng ta thấy không có gì mới lạ, và tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hành thì lại không phải dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền-định rất khó, phải thường có thiện-hữu tri-thức dắt-dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và kiên-nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết quả.

B.-Các Loại Thiền Ðịnh

Thiền-định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại-đạo, có thứ thiền của phạm-phu, có thứ thiền của Tiểu-thừa, có thứ thiền của Ðại-thừa.

Hãy nghe Ngài Tôn-Mật Thiền-sư dạy: ” …Người muốn cầu Thánh-đạo, tất phải tu thiền ”. Chơn-tánh không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song thiền-định có cạn và sâu, từng bực không đồng:

– Người tà-kiến, chấp trước sao lạc, ưu cõi trên, chán cõi dưới mà tu Thiền là ngoại đạo thiền;

– Người chánh tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền, là phàm phu thiền;

– Người biết rõ lý ”ngã không” mà tu thiền là Tiểu-thừa thiền;

- Người ngộ được lý ”ngã, pháp đều không” mà tu thiền là Ðại-thừa thiền;

-Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo tâm ấy mà tu thiền là Tối Thượng thừa thiền, cũng gọi là ”chơn như tam muội”

Vì thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi lạc vào đường nguy hiểm.

I.- Ngoại Ðạo Thiền

Trong phần ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại đạo như đạo Tiên, đạo Bà la môn, các lối thôi miên, và những tà thiền định với mục đích không chơn chánh.

Sao gọi là không chơn chánh? -Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động gì không nhằm mục đích trau dồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não hữu lậu, để cầu giải thoát sanh tử luân hồi, đều không là chơn chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chơn chánh; vì những người tu theo lối thiền định nầy chỉ nhắm mục đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến háo để dạo chơi thế giới, được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được thần tiên để hưởng lạc thú tiêu diêu nơi tiên cảnh…

Bởi họ dụng tâm không chơn chánh, tu phương pháp không chơn tánh, nhắm mục đích thiển cận, bề ngoài và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc đẩy, nên các loại thiền của họ không rốt ráo và toàn thiện được. Trước tiên chúng ta hãy nói đến các tà thiền định.

1.- Tà thiền định: Ðọc các loại sách xưa, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn…tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng củng có những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để được gần phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn hớp vía người lương thiện, để thỏa mãn thú tánh. Ðó là những loài yêu tinh quỷ quái, mà ngày nay theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ những người xưa muốn đặt ra câu chuyện yêu tinh quỹ quái như thế, để ngụ ý các loài thú, nếu tu luyện lâu năm củng có thể phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phép thuật càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu.

Chúng ta cũng thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ cũng tập trung tư tưởng, luyện phép tịnh tâm, và khi thành tâm, và khi thành công cũng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai …mà cũng tác oai, tác oai không ít.

Ðó cũng là do tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là thiền định, và kết quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội.

Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy. Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lồi tà thiền định:

” ..A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân bự hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân hồi được ?. “

”…A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn đoạn tân sát hại, thì chỉ đạo vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi hành dạ xao và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần…”

”…A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma quỉ, bực hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)…”.

2.-Thiền định của đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo tiên để lại, như kinh Huỳnh-đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ v.v.. thì con người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đử ba món: tinh, khí và thần. Tinh, khí là chủ cúa xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hể tinh thần lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưởng tinh, luyện khí cho thân được cởi mở và phát hiện.

” Tiên đạo cho rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là dương khí, khí di xuống là âm khí.

Người tu tiên cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục, làm hao tổn tinh thần. Hể tinh thần hoằng dương tổn thì cái thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc”. Vậy nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí âm, còn bậc tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi (1).

”Ðể luyện khí, người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền, nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép như: ”Tọa công”, ”Giao thiên trụ”, ”Thiệt giải thấu yết”.v.v..

Tóm lại những người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trị chí tập trung tư tưởng, luyện ”Tinh” hóa ”Khí”, luyện ”Khí” hóa ”Thành”, sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa. Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các Thế giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị bệnh hay để uống cho được trường sinh bất tử thành địa tiên.

Những vị tiên này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám chắc là có hay không. Nhưng dù có có đi nữa, thì trên lý thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông, ”phiền não hữu lậu chưa hết” nên khi phiền não rối lên họ cũng bị đọa trở xuống, khi trường hợp ông Uất-Ðầu-Lâm-Phách, hay ông Ðộc-Giác-Tiên-Nhân v.v…Hơn nữa dù họ có luyện cái thân mình cho được trường sanh bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là cái đãy da chứa các vật bất tịnh thì dù có cúng dưỡng cho mấy rốt cuộc rồi cũng bị tan rã. Bởi lẽ đó người tu hành phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ.

Trong bộ Qui-nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Ðồng Tân, học trò của Tiên Hớn Chung Ly, sau khi đấu phép với NgŽài Huỳnh Long hòa thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự đầu Phật là vì ông Lữ Ðồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau đây để nói lên sự sai lầm của ông:

Nguyên văn:

Khí khước biều nan, kích tý cầm

Như kim bất luyến hống trung câm

Từ tùng nhất kiến Huỳnh long hậu

Thì giác tùng tiên thố dụng tâm

Dịch nghĩa:

Bỏ lầu Linh dược ném đờn cầm.

Tôi nay chẳng tiếc nước miếng vàng (2)

Từ khi gặp Huỳnh Long hòa thượng

Mới biết từ trước dụng tâm sai.

(xem quyển Lữ Ðồng Tân đầu Phật)

(1) “Yoga và tọa thuyền” trong đại chúng tuần sau, số 219

3.-Luyện Du già (Yoga). Yoga là một danh từ Ấn, gốc là chữ Yuj; Tàu dịch là Du già, nghĩa đen là ”tự đặt mình dưới một cái ách”; nghĩa bóng là ”tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy luật khắc khe” tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời đất.

Du già cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo thuyết Du già trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái ”chơn quả” từ dưới ”hỏa hậu” (chổ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho hoả hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giản ra, các khớp xương được thông và thẳng.

Ðể đạt được mục đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư thế ”giản lưng ” tư thế ”lưỡi cày”, tư thế ”trồng chuối” (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để cho hỏa hậu dể lưu thông tới đỉnh đầu.

Ngày nay Du già được phổ biến qua các nước Âu -Mỹ, gần như một phong trào. Phần đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân thể được khỏe mạnh, trí huệ được sáng suốt, để tính toán và làm việc được nhiều và hiệu quả. Một số người đi xa hơn, muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự đòi hỏi của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già sẽ làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm cho họ trở thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa, phép mầu chước lạ, họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v…đó là những đạo sĩ người Ấn Ðộ thường gọi là ”pha-kia” (fakir).

Những người này khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không sao, nằm ngũ một giấc luôn trong 3 tháng không ăn, không uống .v.v…

Nhưng dù họ thành công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng trần tục liễu xanh thoát tử và minh tâm kiến tánh được

”Yoga và tọa thiền” trong Ðại chúng tuần san, số 219

”Nước miếng vàng: đối với người tu Tiên, thì nước miếng rất quí họ không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện linh dược.

(1) Nước miếng vàng: Ðối với người tu tiên, thì nước miếng rất qúy, họ không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện thành linh dược

4.- Luyện thôi miên: đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay rất thịnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp tu luyện này cũng là vận dụng tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán lọan nữa, và có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người thôi miên giỏi, có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm những chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền thân của một người khác.v.v…

Tóm lại, nhờ luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chơn chánh, chỉ tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp trừ phiền não, hữu lậu, trau dồi tâm tánh bên trong, để được minh tâm kiến tánh nên không phải là chánh đạo. Ðến khi phiền não hữu lậu nỗi lên hoặc nhiễm sắc tham tài.v.v…thì các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy các đệ tử: ”ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất”.

II.- Phàm Phu Thiền.

Phàm phu thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành-giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ không v.v…đều thuộc phàm phu thiền.

1.- Tứ thiền tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chổ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vui vi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau:

a.-Sơ thiền, ly sanh hỷ lạc: -Hành giả khởi đầu bằng tâm lý nhàm chán cái ô trược của cỏi Dục, và mong cầu được xa lìa (ly) được cái ô trược của Dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Ðó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền).

b.- Nhị thiền, định sanh hỷ lạc: -Nhưng cái vui nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nãy sanh; vì thế cho nên gọi là ” Ðịnh sanh hỷ lạc”.

c.-Tam thiền, ly hỷ diệu lạc: -Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giã lại cần bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bỏ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sinh; vì thế cho nên gọi ”Ly hỷ diệu lạc”.

Trong các kinh thường chép: Cõi tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trên thì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa.

d.-Tứ thiền, xả niệm thanh tịnh: -Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô đọng của Sơ thiền và Nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xã luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toàn thanh tịnh, vì thế nên gọi là ”Xã niệm thanh tịnh”.

2.-Tứ không định: -Sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trãi qua bốn giai đoạn gọi là tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là tứ không, vì khi vào bốn định này, thiên giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa.

Không vô biên xứ định.-Thiền giả khi đã đạt được tứ thiền, tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhưng vẫn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh và bị hình sắc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Ðể rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của tứ không, thể nhập với “Hư không vô biên”, tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh.

b) Thức vô biên xứ định:-Thiền giả khi đã định thứ nhất của tứ không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thấy được cái vô biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm thức; khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi ”Thức vô biên”.

c) Vô sỏ hữu xứ định:-Thiền giả, mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách của thức nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở; mà hễ còn thấy năng sở, tức còn thấy mình và người , còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định ”Vô sở hữu xứ” (cõi không sở hữu).

d) Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định:-Thiền giả khi đã nhập định ”Vô sở hữu”, không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn “tưởng”. Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi “Ðịnh không tưởng”. Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô triều vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá. Không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Ðó là ý nghĩa của cõi định ”Phi tưởng , phi phi tưởng”.

Có chỗ nói định ”Tứ không” thuộc về ngoại đạo, nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc bấy giờ có hai con đường tẻ: Một con đường đi về ngũ A-na-hàm (1) ở cõi tứ thiên(2) thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (3); một con đường đi về tứ không của cõi Vô sắc, thuộc về ngoại đạo.

--------------------------------------

(1) Ngũ A-Na-Hàm là năm cõi A-Na-Hàm:a) Vô phiền, b) Vô nhiệt, c) Thiện kiến, d) Thiện hiện, đ) Sắc cứu cánh.

(2) Tứ thiền có chín cõi ngoài năm cõi A-na hàm, còn có bốn cõi: Vô vân, phước sanh, quảng quả, vô tưởng.

(3) Tiểu Thừa thanh văn có bốn quả thánh A-na hàm thuộc quả thánh thứ ba.

III.-Nhị Thừa Thiền

Nhị Thừa ấy Tiểu-thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền, nghĩa là các người tu theo các loại thiền này có thể vượt ra ngoài thế gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, pháp tu thiền nầy không đem lại một kết quả mau lẹ, lớn lao toàn diện như các lối Ðại-thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cục bộ, tu một pháp chỉ trừ được phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thinh văn thừa và Duyên giác thừa).

Nhị thừa thiền có rất nhiều những phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập thứt thế xứ quán, Bát hồi quả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặng thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Tứ đệ định, Sư tử phấn tấn, siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Tóm lại, hành quả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo-lý của một hay những pháp môn của Nhị thừa để tham sát tham thiền.

Trong phạm vi hẹp hòi của bài phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin nói sơ lược một ít phương pháp. Nếu hành giả muốn đi sâu vào con đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công.

1.- Ngũ đình tâm quán:

Quán tổ sức, trừ tâm toán loạn

Quán bất tịnh, trừ tâm tham sắc dục

Quán từ bi, trừ tâm sân hận

Quán nhân duyên, trừ tâm si mê

Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã.

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)

2.- Cửu tưởng quán:

a.-Tưởng thây sình tướng

b.-Tưởng thây hoại diệt

c.-Tưởng máu mủ chảy

d.- Tưởng thây rục rã

đ.- Tưởng thây xanh chàm

e.- Tưởng thây bị giòi rúc rỉa

ê.-Tưởng thây tan rã

g.- Tưởng còn lại đống xương

h.-Tưởng xương bị đốt tiêu.

3.- Tứ vô lượng tâm:

a.-Tâm vô từ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng vô từ vô lượng, bao bọc chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên.

b.-Tâm bi vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sanh trong năm đường.

c.-Tâm hỷ vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sanh đều được Hỷ.

d.-Tâm xã vô lượng: Thiền giã vờ mỡ rộng lòng Xã vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì.

Tứ vô lượng tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu tứ vô tâm lượng, thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cỏi Tứ thiền; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau đặng Niết bàn, bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể .

(xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV)

4.- Thập lục đặc thắng:

Thập lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, có đủ các thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, tứ không, không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là:

a.- Biết hơi thở vào

b.- Biết hơi thở ra

c.- Biết hơi thở dài ngắn

d.- Biết hơi thở thắp thân

đ.- Trừ các thân hạnh

e.- Thọ hỷ

ê.- Thọ lạc

f.- Thọ các tâm hạnh

g.- Tâm tác hỷ

h.- Tâm tác nhiếp

i.- Tâm tác giải thoát

k.- Quán vô thường

l.- Quán xuất tán

m.- Quán ly dục

n.- Quán diệt

o.- Quán phí xả.

5.- Thông minh thiền:

Thông minh thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh.

a.-Lục thông tức là sáu phép thần thôngnhư: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông.

b.-Tam minh tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh.

6.- Thập nhứt thế xứ quán:

Thập nhứt thế xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây:

a.- Quán sắc xanh, khắp giáp tất cả chổ

b.- Quán sắc vàng, khắp giáp tất cả chổ

c.- Quán sắc đỏ, khắp giáp tất cả chổ

d.- Quán sắc trắng, khắp giáp tất cả chổ

đ.- Quán đất, khắp giáp tất cả chổ

e.- Quán nước, khắp giáp tất cả chổ

ê.- Quán gió, khắp giáp tất cả chổ

g.- Quán lửa, khắp giáp tất cả chổ

h.- Quán hư không khắp giáp tất cả chổ ụ

i.- Quán thức tâm, khắp giáp tất cả chổ

7.- Bát bối xã quán:

Bát xã quán yức là tám phép quán có thể trái bỏ(bối xả) cảnh giới Tứ thiền, tú định của thế gian, dể thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là:

a.- Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền.

b.-Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc, để bỏ cảnh giới Nhị thiền .

c.- Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền .

d.- Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ.

đ.- Quán trái bỏ Thức vô biên xứ

e.- Quán trái bỏ Vô sớ hữu xứ

ê.- Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.

f.- Quán trái bỏ diệt thọ tưởng.

8.- Bát thắng xứ quán:

Thắng có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán, cũng như công đức thu thập được trong khi thu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xã trên, nên gọi là ”Bát thắng xứ quán”’.

a.- Trong có sắc tướng, ngoài có ít sắc, thắng xứ.

b.- Trong có sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ

c.- Trong không sắc tướng, ngoài quán ít sắc, thắng xứ

d.- Trong không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ

đ.- Quán sắc xanh, thắng xứ

e.- Quán sắc vàng, thắng xứ

ê.- Quán sắc đỏ, thắng xứ

f.- Quán sắc trắng, thắng xứ

9.- Lục diệu pháp môn:

Lục diệu pháp môn là sáu phép môn mầu nhiệm sau đây:

a) Số. b) Tùy. c) Chỉ. d) Quán. e) Hoàn. f) Tịnh.

(Xem quyển Lục Diệp pháp môn)

10.- Bát niệm xứ:

Với phép quán tám niệm sau nầy,thiền giả sẽ trừ được sự sợ hãi khi tu cửu tưởng và sẽ được đạo quả

a)Niệm Phật. b) Niệm pháp . c) Niệm tăng. d) Niệm giới. f) Niệm xả. g) Niệm hơi thở ra vào. h) Niệm chết (nhớ chết).

11.- Thập quán tưởng:

Thập quán tương gồm có:

a). Tưởng vô thường, b). Tưởng khổ, c), Tưởng vô ngã , d). Tưởng ăn vật bất binh, đ). Tưởng thế gian không vui, e). Tưởng chết, f). Tưởng bất tịnh, g). Tưởng đoạn, h). Tưởng lìa, i). Tưởng hết.

12.- Cửu thế đệ định:

Cửu thế đệ định là 9 món thiền-định mà thiền-giả sẽ tuần tự theo thứ lớp tu-luyện: từ Sơ-thiền đến Tứ-thiền, rồi đến Tứ-định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt-thọ-tưởng là chín món tất cả.

13.- Sư-tử phấn tấn Tam-muội:

Với pháp thiền này, hành-giả bắt đầu tham-thiền như pháp Cửu-thứ-đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ-thiền đến thiền-định thứ chín là Diệt-thọ-tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ-thiền. Thiền-giả tới lui trong thiền-định một cách thông suốt, tự-tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư-tử, nên gọi là ”Sư-tử phấn tấn tam-muội ”. Kết quả của lối thiền này, nếu được hoàn toàn siêu-việt thì thiền-giả sẻ là Bồ Tát. Nếu không hoàn-toàn tự-tại và chưa siêu-việt thì thành Thanh Văn.

14.-Ba mươi bảy pháp trợ đạo:

Thiền-giả cũng có thể lấy một pháp-môn hay nhiều pháp-môn trong số 37 pháp trợ-đạo để tham-thiền, tu-luyện. Ba mươi bảy pháp trợ-đạo đã có nói rỏ trong Phật-học Phổ-thông khóa ba. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độc-giả nhớ lại thôi:

a). Ngũ căn b). Ngũ lực

c). Tứ chânh cần d). Tứ như ý túc

đ). Tứ niệm xứ e). Thất Bồ-đề phần

ê). Bát chánh đạo phần.

Kết Luận Về Nhị Thừa Thiền

Các pháp tu thiền của Nhị-thừa hay Tiểu-thừa nói trên, như quý độc-giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành-giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích-hợp với trình-độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp-môn nấy được. Sự lựa-chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng-dẫn. Vì-thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chân tu đi ” cầu pháp ”, hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó-nhọc, có nhiều khi hy-sinh cả tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sư chỉ dạy phương-pháp tu hành, như Ngài Thiện-Tài đi tham-cầu 53 vị Thiện-triều-thức, Ngài Huyền-Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Ðộ để cầu Pháp. Hành-giả sau khi được vị minh-sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một thời-gian rất lâu để vị minh-sư ấy quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như Ngài Xá-lợi-phất đem pháp Sổ-tức dạy người giữ nghĩa-địa, hay pháp quán Bất-tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết-quả gì hết.

Hành-giả cũng nên nhớ một điều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bôn-chôn, nóng-nảy vô ích. Sự tu hành cũng như trồng cây, không thể nóng nảy được. Người trồng cây, lo vô phân tưới nước, làm đây đủ bổn phận của mình, rồi kiên-nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên.

Người tu hành cũng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích-trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được minh tâm kiến tánh.

Hãy nhớ rằng tu-hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được.

IV.- Ðại Thừa Thiền

Ðại-thừa Thiền là pháp tu thiền của Ðại-thừa, cũng gọi là xuất-thế-gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những người thượng căn rất thông-minh và lanh-lợi tu. Những bực Ðại-thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền não thô-trược, chỉ còn vi-tế vô-minh, nếu kiếp này gặp được minh-sư chỉ giáo cho phép tu Ðại-thừa thiền nầy, thì sẽ được tỏa ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu-tố căn bản của Ðại-thừa thiền là trí-huệ. Thiền-giả phải lấy trí-huệ để tự quan sát tâm-tánh. Nếu thiếu trí-huệ, thiền-giả khó được kết-quả khi tu theo Ðại-thừa thiền.

Các Pháp Thiền Ðịnh Của Ðại Thừa

Các pháp thiền-định của Ðại-thừa rất nhiều như: Pháp-hoa tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Ban châu tam-muội, Giác ý tam-muội, Thủ-tăng-nghiên tam-muội, Tứ-tánh-thiền, Nhứt-thế-thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền, Nhứt tế hạnh thiền, Trừ phiền-não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh-tịnh tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như lai tối thượng thừa thiền, Ðat-ma sư-tổ thiền .v.v.

Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền-định thông thường của Ðại-thừa.

1.- Sao gọi là ” Pháp hoa tam-muội ”?

Phương pháp nay dựa theo kinh Ðại phẩm Bát-nhã. Hành-giả tu pháp này, tâm ý giác-ngộ tất cả các pháp và được vô-sanh-nhẫn (độc giả nào muốn rỏ thêm, hảy xem lời bình luận của Ngài Trí-Giả-Ðại-Sư).

4.- Sao gọi là ” Thủ nghiêm tam muội ”?

Phương-pháp này căn cứ theo kinh Thủ-lăng-nghiêm. Hành-giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thực-thể như là Như-Lai-Tạng tam muội mà tùy duyên biến-hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rỏ các pháp đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham-thiền nhập-định, nên cũng gọi là như hiển tam-muội.

5.- Sao gọi là ” Tự-tánh thiền, Nhứt thế thiền, nan thiền .v.v..”?

Các món thiền như ”Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn thiền. Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh- tịnh tịnh thiền ”, gồm cả thảy chín món và được gọi là Ðại-thừa thiền.

Sở dĩ, gọi các món thiền nay là Ðại-thừa thiền, vì các vị Bồ Tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên được công-hạnh rộng lớn, thắm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rỏ thêm, hảy đọc quyễn ” Pháp giới thứ đệ sang môn ” do Ngài Trí-Giả Ðại-Sư soạn).

6.- Sao gọi là ” Trực-chỉ thiền ”?

Trực-chỉ thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không dùng phương-tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo.

7.- Sao gọi là ” Như-lai thanh-tịnh thiền”?

Như-lai thanh-tịnh thiền là pháp thiền thanh-tịnh của Như-lai. Như chúng ta đã biết, Ðức-Phật Thích-Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi tham-thiền 6 năm dưới gốc cây Bồ- đề. Sau khi phá trừ hết vô minh phiền-não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ-đề. Do đó, phép thiền này được gọi là ” Như-lai thanh-tịnh thiền”.

8.- Sao gọi là ” Như-lai Tối-thượng-thừa thiền ”?

Ðây là phép thiền cao-siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như-lai đã ứng-dụng.

9.- Sao gọi là Ðạt-Ma Tổ-Sư thiền ”?

Như chúng ta nghe, Ngài Ðạt-Ma sau khi từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xây mặt vào tường chín năm, tại chùa Thiếu-Lâm để tham-thiền. Ðat-Ma Tổ-sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đã tu luyện ở chùa Thiếu-Lâm vậy.

Các phép thiền của Ðại-thừa, như quý độc-giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết, tựu-trung có thể chia làm hai loại lớn:

1.- Một loại thường gọi là tam-muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương-pháp nhất định, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Ban-châu tam-muội, Giác-ý tam-muội, Thủ-tăng-nghiêm tam-muội v.v…Các loại tam-muội này vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thứ hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều.

2.- Một loại thứ hai, được truyền dạy không căn-cứ theo kinh-giáo, không có văn tự, tức là loại thiền ” giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn-tự ”, như các pháp ” Trực-chỉ thiền, Như-lai thanh-tịnh thiền, Tự-tánh thanh-tịnh thiền, Như-lai tối-thượng thừa thiền, Ðạt-Ma Tổ-sư thiền v.v…Với loại thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác-ngộ của mình để ấn-chứng cho người sau giác ngộ. Ðó tức là loại thiền ” Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật ”: Vị minh-sư dùng tâm mình đễ tiếp xúc với tâm đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ-tử; như dùng ngộn đèn sáng chói mà tâm mình mã bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ-tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực-tiếp của sự giác-ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền này tức là loại thiền đã xây dựng truyền nối từ Ðức-Phật Thích-Ca xuống cho đến Ngài Lục-tổ. Ðây là một lối ” truyền đạo” hay ”truyền đăng” trực tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho một người, chứ không thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một vị có trí-huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp.

Cách truyền dạy pháp thiền này có hai lối:

a). Tham cứu một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay ”công-án”, nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng ý-nghĩa sâu-xa, đối với người thường không hiểu được.

Khi một vị Tổ của phái Thiền-Tông này nhận thấy trong hàng đệ-tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo tiếp nối sự nghiệp của Thiền-tông và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị đệ-tử ấy một câu thoại-đầu (một luận-án, như bây giờ, các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám khảo). Vị đệ-tử này, đêm ngày tham cứu câu thoại-đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ-tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ-sư mới ấn chứng cho.

b). Nhưng nhiều khi vị Tổ-sư lại không trao cho đệ-tử của mình một câu thoại-đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ-lùng, người thường khó có thể hiểu được như : đánh, hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v…chẳng hạn; như có một vị đệ-tử đến cấu đạo với một vị Tổ-sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng Thiền-tượng (roi thiền) đánh dập vị đệ-tử kia, để xem sự phản ứng ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị Tổ-sư biết được vị đệ-tử kia đã giác ngộ hay chưa.

( Xem Pháp Bảo Ðàn Kinh).

Tóm lại, pháp thiền này rất là mầu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói: ” Thiền cơ huyền diệu” ( máy thiền mầu-nhiệm). Các vị Tổ-sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà ứng-biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị đệ-tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài tùy cơ lập pháp. Tất nhiên phương-pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương-pháp gì để truyền thọ.

Về sau cũng có người bắt chước những phương-pháp như đánh, hét v.v…nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì.

Hệ Thống Truyền Thừa Của các Tổ Trong Phái Thiền Tông Tại Ấn Ðộ

1.-Ngài Ma Ha Ca Diếp, Sơ-tổ của Thiền-tông ở Ấn Ðộ:

Trong kinh Phạm thiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ “Thích nghi kê cổ ” quyển nhất, chùa chép đại khái như sau: khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Ðại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen lên để khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Toàn thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma Ha Ca Diếp là tỏa ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Ðức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca-Diếp được đắc truyền và làm tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Ðộ) Phật tuyên bố như sau:

Nguyên văn:

Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng

Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng,

Vi diệu pháp môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp

Dịch nghĩa:

Ta ương ”chánh pháp nhãn tạng, cũng gọi là Niết bàn diệu tâm, cũng tên là thật tướng vô tướng” cũng gọi là “Vi diệu pháp môn”, nay ta truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.

Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:

Nguyên văn:

Pháp pháp bổn vô pháp

Vô pháp pháp, diệc pháp

Kim phú vô pháp thời

Pháp pháp hà tằng pháp.

Dịch nghĩa:

Các pháp vốn không pháp

Không pháp cũng là pháp

Nay truyền cái vô pháp (vô tướng)

Vô pháp nào có pháp.

Ðây là nguồn gốc phát khởi Thiền tông, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện.

2.- Ngài A-Nan, Tổ thứ hai của Thiền tông ở Ấn Ðộ:

Một hôm Ngài A-Nan hỏi Ca-Diếp:

– Ngoài việc truyền y bát, đức Thích tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa không?

Tổ Ca-Diếp gọi to:

– A-Nan !

Ngài A-Nan: Dạ !

Tôí dạy tiếp:

– Cây sào phướn trước của chùa ngã !

Ngài A-Nan liền tỏ ngộ Thiền cơ, nên được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị tổ thứ hai. (xem Phật học từ điển, trang 1638 về mục “Ca-Diếp can sát”).

Từ Ngài A-Nan trở về sau, có thêm 26 vị Tổ về Thiền tông nữa. Cộng cả Ngài Ca-Diếp và Ngài A-Nan, ở Ấn Ðộ có cả thảy là 28 vị Tổ, thứ lớp tuần tự như sau:

1 .- Tổ Ma Ha Ca Diếp

2. Tổ A-Nan

3. Tổ Thương-Na Hòa-Thứ

4. Tổ Ưu-Ba Cúc Ða

5. Tổ Ðề-Ða-Ca

6. Tổ Di Giá Ca

7. Tổ Bà Tu Mật

8 Tổ Phật Ðà Nan Ðề

9 Tổ Phục Ðà Mật Ða

10 Tổ Hiếp Tôn Giả

11 Tổ Phú Na Giạ Xa

12 Tổ Mã Minh

13 Tổ Ca Tỳ Ma La

14 Tổ Long Thọ

15 Tổ Ca Na Ðề Bà

16 Tổ La Hầu Na Ða

17 Tổ Tăng Già Nan Ðề

18 Tổ Già Ða Xá Ða

19 Tổ Cưu Ma La Ða

20 Tổ Xà Giạ Ða

21 Tổ Bà Tu Bàn Ðầu

22 Tổ Ma Noa La

23 Tổ Hạc Lặc Na

24 Tổ Sư Tử

25 Tổ Bà Xá Tư Ða

26 Tổ Bát Như Mật Ða

27 Tổ Bát Nhã Ða La

28 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma

(Theo truyện Phú Pháp Tạng Nhơn duyên)

Hai mươi tám vị tổ này được làm rực rỡ cho Phật Giáo ở Ấn Ðộ, chứ không cho riêng gì Thiền Tông Phật Giáo sau này được lan rộng trên toàn cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị Tổ này. Ngày nay khi nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở trong Phật Thiền Tông. Sự nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Ðộ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật-Bản và đến Việt-Nam nữa.

Sự Truyền Thừa Thiền Tông Ở Trung Hoa

1.- Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, sơ Tổ của Thiền Tông ở Trung Hoa.

Sau khi Ngài Bát Nhã Ða La, vị Tổ 27 của Thiền Tông ở Ấn-Ðộ, ấn chứng cho làm tổ thứ 28, Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma ở lại Ấn Ðộ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo.

Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Ðế (528 dl.) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức bề ngoài, nên tổ Ðạt Ma được giả từ vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xây mặt vào tường, tham thiền nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo ( xem quyển tổ Ðạt Ma, do Hương Ðạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là ”Ðạt Ma tổ sư thiền ”. Trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài, đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Ðó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Ðó là Ngài Thần Quang mà sau này được tổ Ðạt Ma ấn chứng cho làm tổ thứ hai của Thiền Tông ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả.

Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, tổ Ðề Ðạt Ma còn truyền lạ bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị.

2.- Ngài Huệ Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền Tông thứ hai ở Trung Hoa.

Ngài Thần Quang, nghe danh tổ Ðạt Ma đến cầu đạo. Nhưng tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi luôn mấy năm suốt mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng tổ cũng không đoái hoài đến không. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình. Lúc bấy giờ tổ Ðạt Ma mới xoay lại hỏi:

Ông đến đây cầu gì?

Ngài đáp:

Con cầu pháp an tâm.

Tổ bảo:

Ông đem tâm đến đây để ta an cho.

Ngài thưa:

Con tìm tâm không được.

Tổ dạy:

Ta đã an tâm cho ông rồi đó !

Ngài liền ngộ đạo. Tổ Ðạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho Ngài Huệ Khả:

Nguyên văn:

Ngô bổn lai tư độ

Truyền pháp độ mê tình

Nhất hoa khai ngũ diệp

Kết quả tự nhiên thành.

Dịch nghĩa:

Ta đến nước Trung Hoa

Truyền pháp độ kẻ mê

Một bông trổ năm cánh

Kết quả tự nhiên thành.

3.- Ngài Tăng Xán, vị tổ thứ ba của Thiền ở Trung Hoa.

Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho Ngài Tăng xán làm vị Tổ thứ ba của thiền tông ở Trung Hoa.

4.- Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư của Thiền tổ ở Trung Hoa.

Tổ Tăng Xán truyền pháp cho Ngài Ðạo Tín là vị tổ thứ tư. Sự truyền pháp lại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu.

Ngài Hoằng Nhẫn ở núi Ðông Sơn, huyện Huỳnh Mai.

Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Ðầu, cũng gọi là “Ngưu Ðâu Thiền”.

5.- Ngài Hoằng Nhẫn, vị tổ thứ năm của Thiền tôn ở Trung Hoa.

Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây:

Một hôm Ngài Ðạo Tín, vị tổ thứ tư Thiền tông, thấy một ông già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi, có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy:

Ta đã già, ông đã già ! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy nếu ông có thể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho ! Ông già thưa:

Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ được tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con được?

Ðức Tứ tổ dạy:

Ta sẽ ở nán lại cỏi đời để chờ ông.

Vâng lời tổ dạy, ông giá đi vòng theo dòng suối, thấy một cô gái gồi giặt bên bờ. Ông già hỏi:

Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không?

Cô gái thưa:

Ông hãy hỏi cha mẹ cháu.

Ông già nói tiếp:

Nếu cô bằng lòng thì tôi hỏi sau.

Cô gái trả lời:

Dạ bằng lòng

Ðược lời, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác.

Còn cô gái kia, không có chồng mà từ đó trở nên có mang. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô gái phải bỏ nhà đi ăn xin vất vã, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Ðứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mỡ miệng cười. Tổ nói:

-Ta đang trông đợi ngươi đây !

Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé.

Tổ Ðạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn rồi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền Tông. sau khi truyền đạo xong, tứ tổ Ðạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa).

6.- Ngài Huệ Năng vị tổ thứ sáu của Thiền Tông ở Trung Hoa.

Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chử, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho một nhà phú ông. Trong khi chờ đợi Ngài lắng nge chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Ðến câu ”ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm ”, Ngài liền ngộ đạo.

Ðợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trộ khên ngợi và hỏi rằng:

Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy?

Tôi cũng muốn thọ trì tụng đọc như ông.

Phú ông mách cho Ngài:

Tại núi Ðông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngũ tổ, thường truyền Phật độ người, ông nên đến đó mà cầu đạo.

– Ngài trả lời:

Tôi cũng muốn như thế lắm; ngặt còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao !

– Phú ông bảo:

Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi thật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.

– Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho Phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.

– Ngũ tổ thấy Ngài hỏi:

Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì ?

– Ngài đáp:

Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật.

Ngũ tổ thấy hình thù Ngài kì dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả quở to rằng:

Ông là người mọi rợ phương Nam mà cầu thành Phật làm gì?

– Ngài Huệ Năng trả lời:

Bạch tổ sư ! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc.

Ngũ tổ sợ trong công chúng để ý, lộ bí mật nên chẳng hỏi han gì nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù công giã gạo

Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình được già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng:

Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ sáu.

Tin này được truyền ra rất mau chóng.

Trong chúng mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán:

Trong chúng chỉ có Thưởng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa cũng được truyền tổ vị.

Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngũ Tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngũ cả, mới cầm đèn hồi hợp đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm: ” Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không ai biết”.

Nguyên văn:

Thân thị Bồ-Ðề thọ

 

Tâm như minh cảnh đài

 

Thời thời thường phất thức

 

Dật sử nhá trần ai.

Dịch nghĩa:

Thân là cây Bồ-Ðề

 

Tâm như đài gương sáng

 

Thường ngày hằng quét lau

 

Chớ cho dính bụi trần.

Sáng nay, tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiện trên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục:

- Ðây rồi! Kế tổ vị đây rồi! Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa! nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, Ngài Huệ Năng cũng từ nhà trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ, Ngài Huệ Năng nói:- Còn đứng ngoài cửa rào.

Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ:

-Ðã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào!

Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo:

-Tôi cũng có một bài kệ, xin các Ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ.

Một người liền hoan hỷ viết hộ. Huệ Năng đọc bài kệ sau đây:

Nguyên văn:

Bồ-Ðề bổn vô thọ

Tâm phi minh cảnh đài

Bổn lai vô nhứt vật

Hà xứ nhá trần ai?

Dịch nghĩa:

Bồ-Ðề vốn không cây

Tâm không phải đài gương

Xưa nay không một vật

Chỗ nào dính bụi trần?

Nghe xong bài kệ, mọi người đều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế?

Ngủ Tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luận có thể nguy hại cho Ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của Ngài Huệ Năng.

Một buổi chiều, Ngũ Tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng:

– Gạo đã trắng chưa ? (mật ý hỏi: Ðạo đã ngộ chưa? )

Ngài Huệ Năng đáp:

-Bạch Tổ, gạo con giả đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng ( mật ý Ngài muốn nói: Ðạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền ).

Ngũ Tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên dầu chày ba cái rồi đi lên ( Ngũ Tổ bảo Huệ Năng canh ba vào phòng ). Ngài Huệ Năng vào phòng Ngũ tổ. Ngài được Ngũ Tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tỏ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo pháp ( Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).

Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn Ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Bắc chủ trương về Tiệm tu, nên gọi là “Nam đốn, Bắc tiệm” hay ”Nam Năng Bắc Tú”.

Sau đây là bản lược đồ về sáu vị tỏ thiền tôn ở Trung Hoa:

Sơ tổ : Ngài Bồ-Ðề Ðạt -Ma

Nhị tổ : Ngài Huệ -Khả (Thần Quang)

Tam tổ: Ngài Tăng- Xán

Tứ tổ : Ngài Ðạo Tín

Ngũ tổ : Ngài Hoằng Nhẫn

Ngài Ngưu Ðầu thiền Sư

Lục tổ : Ngài Huệ Năng

Ngài Thần Tú.

Từ Ngài lục tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền Tông không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây:

Hai Phái Và Năm Dòng Thiền:

Ngài Huệ Năng từ khi lên làm lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nỗi tiếng hơn hết là Ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xêm Pháp Bảo Ðàn Kinh). Hai Ngài này là mở đầu cho hai phái Thiền Tông là phái Nam nhạc và phái Thanh Nguyên.

Phái Nam nhạc về sau lại chia làm hai dòng là: Lâm tế và Quy ngưởng.

Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn.

Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền Tôn ở Trung Hoa.

I.-Ngài Hoài Nhượng ( Ở Nam nhạc )

1.-Lâm tế

2.-Quy Ngưởng

II.-Ngài Hành Tú (Ở Thanh Nguyên) 3.-Tào Ðộng

4.-Vân Môn

5.-Pháp Môn

1.-Dòng Lâm Tế

a)Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau:

- Hoài Nhượng Thiền Sư

-Ðạo Nhứt Thiền Sư (họ Mã, tục gọi là Mã Tổ)

-Bách Trượng Thiền Sư (Hoài Hải)

- Huỳnh Nghiệt Thiền Sư (Hỳ Vân)- Lâm Tế Nghĩa Huyền.

b.-Sự truyền pháp (thiền cơ) của tông Lâm Tế:

Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền Tông khó mà hiểu được, đói với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hết to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền-sư:

Để cầu giác ngộ, một hôm Ngài Lâm tế hỏi Huỳnh Nghiệt:

- Sao gọi là đại ý Phật pháp ?

Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm tế một cái. Ba lần Ngài Lâm tế hỏi, thì ba lần được đánh như thế.

Ngài Lâm tế lầy làm bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Ðại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm tế mới ngộ được tông chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt.

Từ đó về sau, dòng Lâm tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy.

Ngài Lâm tế nói: ”Có khi hét một tiếng như bữu kiếm kim cương vương, có khi hét một tiếng như sư tử giậm chân, có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét “.bởi thế nên người đời gọi là” Lâm tế tứ yết “

(bốn tiếng hét của Lâm tế).

Dòng Lâm tế sau lại chia làm hai nhánh: Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tông trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm tế.

2.-Dòng Quy Ngưỡng

Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy sơn đất Ðàm châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch.

Ngài Quy Ngưỡng là một vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài, không ai có thể lường được . Ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tôn. Sự truyền đạo của Ngài cũng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đạo thi Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng người, tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.

3.-Dòng Tào Ðộng:

Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:

+ Ngài Thanh Nguyên Thiền Sư

+ Ngài Hy Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa Thượng

+ Ngài Dược Sơn Thiền Sư

+ Ngài Vân Nham Thiền Sư

+ Ngài Lương Giới Thiền Sư ở núi Ðông Sơn

+ Ngài Bổn Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn

Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Ðông Sơn); Ngài lương giới cũng dùng pháp này để truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).

4.- Dòng Vân-Môn:

Sự truyền thừa của tông này, thứ tự như sau:

a).Ngài Thạch-Ðầu Thiền sư

b).Ngài Thiên-Hoàng.

c).Ngài Long-Ðàm.

d).Ngài Ðức-sơn.

đ).Ngài Tuyết-phong.

e).Ngài Vân-Uyển Thiền-sư ở đất Thiền-châu, Vân-môn.

Cách truyền pháp của Ngài Vân-Uyển (Vân-môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ”Dám”. Nếu người cầu đạo ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ ”Di”. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là ” Nhứt tự quán ” ( Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di ”.

5.- Dòng Pháp-nhãn :

Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau:

a). Ngài Tuyết-phong Thiền-sư.

b). Ngài Huyền-sang Thiền-sư.

c). Ngài Xa-hán Thiền-sư.

d). Ngài Vân-ích Thiền-sư.

Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân-ích Thiền-sư là đúng sáu tướng trong kinh Hoa-Nghiêm sau đây:

– Tổng tướng: Tức là muốn nói đến chơn-như nhứt tâm.

– Biệt tướng: Tức là các duyên sanh khởi từ chơn-như nhứt tâm.

– Ðồng tướng: Các pháp đều đồng như nhau.

– Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng.

– Thành tướng: Dựng lập ra cảnh-giới.

– Hoại tướng: Vị trí không đồng tức là hoại tướng.

Thiền Tông Ở Việt Nam

Như chúng ta đã biết, Phật Giáo Việt-Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tông được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt-Nam Thiền tông cũng được xem như là một phái chính của đạo Phật. Đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là khó hiểu.

Phật giáo truyền vào Việt-Nam từ thế kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh Tăng người Ấn Ðộ và Trung Hoa, như các Ngài Ma-Ha-Ha-Kỳ Vực, Ngài Khương-Tăng-Hội (người Ấn Ðộ ), Ngài Mâu-Bác (người Trung Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc tông phái nào, và truyền vào Việt-Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tông. vì Thiền tôgn ở Việt-Nam là do từ Trung Hoa truyền sang. Mà Thiền tôn ở Trung Hoa thì phải đợi đến đầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương-Võ-Ðế (528), tổ Bồ-Ðề -Ðạt-Ma mới đưa vào, vậy thì nhất định là Thiền tông ở Việt-Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt-Nam chứng minh. Vào năm 580 ( cuối thế kỷ thứ VI ), Ngài Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi, lần đầu tiên truyền thiền tông vào Việt-Nam , và là vị sơ tổ về Thiền tông Việt-Nam. Sau Ngài Tỳ-Nhiều-Lưu-chi củng có nhiều vị danh tăng khác đem truyền Thiền tông vào Việt-Nam và nhờ đó, Việt-Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tông như ở Trung Hoa. Một điều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử Việt-Nam là ngoài những phái Thiền tông ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tông do một vị vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân Tông.

Dưới đây, chúng ta tuần tự nói về các môn phái Thiền tông ấy:

1.-Phái Tỳ-Nhiều-Ða-Lưu-Chi;

a ) Vị Sơ tổ Thiền tông ở Việt-Nam .

Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi, người Ấn Ðộ là đệ tử Ngài Tăng-Xán (Tam tổ thiền tông).

Lần đầu tiên gặp tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác thường, Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đãnh lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi mắt chứ không nói gì hết (thiền cơ). Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy trong người đổi khác, như tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy. Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong những đệ tử xuất sắc nhất của tổ Tăng Xán.

Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương nam để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang Việt-Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp vân ở tỉnh Hà Ðông.

Khi sắp thị tịch, Ngài gọi đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:

” Tâm ấn của Phật , không có thể mập mờ được , Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến không đi không được, không mất, không phải đông nhất, cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt không xa cách cũng không phải không xa xách. Chỉ vì đối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà thôi”.

Chư Phật trong ba đời do đó (tâm-ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ-sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loại hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.

Khi đệ tam Tổ Tăng-xán ấn chứng ”tâm-ấn” cho ta, đã bảo rằng: ”Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì”.

Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền-ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta.

Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi !”

Dạy xong, Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Ðệ-tử trà-tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ.

Về sau, vua Lý-Thái-Tông có bài kệ truy-tán Ngài như sau:

Nguyên văn:

Sáng tự lai Nam Quốc

Văn quân cữu tập thiền

Ưĩng khai chi Phật tín

Viễn hợp nhất tâm nguyên

Hạo hạo Lăng-già nguyệt

Phân phân Bát-nhã liên

Hà thời hạnh tương kiến

Tương dữ thoại trùng thuyền.

Dịch nghĩa:

Mở lối qua người Việt

Nghe Ngài thông đạo thiền

Nguồn tâm thông một mạch

Cõi Phật rộng quanh miền

Lăng-già ngời bóng nguyệt

Bát-nhã nứt mùi sen

Biết bao giờ được gặp

Ðàm-đạo lẽ thâm-huyền.

b). Ngài Pháp-hiển Thiền-sư, vị Tổ thừ hai của Thiền-tông Việt-Nam:

Sau khi Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi tịch, Ngài Pháp-hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền-tông Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi. Ngài họ Ðỗ, quê ở Quận Chu-diên (Sơn tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp-Vân, Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi:

– Chú họ gì?

Ngài Pháp-hiển hỏi lại:

-Hòa-thượng họ gì?

Tổ lại hỏi:

-Chú không có họ à?

Ngài trã lời:

-Sao lại không có ! Nhưng đố Hòa-thượng biết?

Tổ quát lên:

-Biết để làm gì?

Ngài Pháp-Hiển chợt ngộ ý Tổ Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ-tử và sau được truyền tâm-ấn.

Ðược ít lâu, sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ-sơn tu thiền-định, những loại cầm thú thường quấn quýt chung-quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Ðệ-tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền-tông ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất. Ðó cũng nhờ công đức hoằng-hóa của Ngài Tỳ Ni-Ðà-Lưu-Chi và Ngài Pháp-hiển. Về sau trong pháp nẫy cũng có nhiều vị thiền-sư xuất-sắc như Ngài Pháp-thuận, Vạn-hạnh .v.v…

2.- Phái Vô-Ngôn-Thông:

a). Vị Sư-tổ của Pháp Thiền-tông thứ hai ở Việt-Nam:

Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng-châu, xuất gia ở chùa Song-Lâm (Triết-giang bây giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ).

Khi Ngài mới đến yết kiến Bách Trượng Thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng:

Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái Ðại-thừa?

Bách Trượng thiền sư dạy rằng:

-Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng).

Nghe được câu ấy, tự nhiên Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt-Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng (Bắc Ninh), Ngài ngồi quay mặt vào vách trọn ngày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng trong Phật Thiền tông, nên tôn thờ Ngài làm Thầy.

Trước khi tịch gọi Cảm Thành thiền sư mà bảo:

-Ngày xưa tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng:

Nhất thế chư pháp, giai tùng tâm sanh

Tâm vô sở sanh, pháp vô sở trú

Nhược đạt tâm địa, sở trú vô ngại

Phi ngộ thượng căn, thận vật kinh hứa.

Nghĩa là: Hết thải các pháp, đều tự tâm sanh; tâm nếu không sanh, pháp không chổ trú. Nếu hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không trở ngại, cái tâm pháp ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên truyền bậy.”

”Ðó là lời dặn của người xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy”.

Nói xong Ngài chắp tay mà tịch.

b) Vị Nhị tổ của phái Vô Ngôn Thông:

Cảm Thành thiền sư: Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh).

Khi Ngài Vô Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối đạo, nên ở lại. Và Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do đó Ngài Vô Ngôn Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Ngài Cảm Thành thật xứng đáng là người nối chí của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài :

-Thế nào là Phật?

Ngài trả lời:

- Chổ nào cũng là Phật cả.

Vị đệ tử lại hỏi:

-Thế nào là tâm của Phật?

Ngài trả lời:

-Không hề che đậy chổ nào.

Ðây cũng là một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng.

Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư.

c) Vị tam tổ của phái Vô Ngôn Thông:

Ngài Thiện Hội thiền sư: Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy:

Trong kinh Phật có dạy: ” Ðức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy rằng ” tâm tức là Phật, Phật tức là tâm” là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu xin thầy dạy rỏ cho.

Cảm Thành thiền sư nói:

-Ngươi nói trong kinh Phật nói thế là ai nói đó?

-Vậy lời ấy không phải là Phật thuyết sao?

-Lời ấy phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: ” Ta trú ở thế gian để dạy chúng sanh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ !” Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, cũng lại là ma vậy.

-Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật?

-Ngày xưa có người hỏi mã tổ rằng: ” Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật ?” Mã Tổ trả lời: ” Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào ấy cho ta xem !”. Người ấy không chỉ được . Mã Tổ lại tiếp: ” Ðạt được thì khắp mọi nơi chổ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm đi mãi mãi”. Thế là chỉ một lời nói nó che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa?

Ngài Thiện Hội trả lời:

-Nếu như vậy đệ tử hiểu rồi.

-Người hiểu thế nào?

-Ðệ tử hiểu rằng khắp hết mọi nơi, chổ nào củng là tâm Phật cả.

Nói xong Thiện Hội thiền sư súp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:

-Thế là người hiểu tới nơi rồi đó.

Do sự lãnh hội mau chóng đó ma Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là ”khéo hiểu”.

Trên đây là một vài câu chuyện đến đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tông.

Sứ truyền pháp từ thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Ðến đời cư sỉ Ứng Thuận (1221) là cuối cùng.

3.- Phái Thảo Ðường:

Năm kỷ dậu (1069) vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản ”Ngữ lục” của mình bị một tù binh sữa chưa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị thiền sư người Trung Hoa, theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy là Ngài Thảo Ðường, đệ tử của Ngài Tuyết Ðậu Minh Giác ở Trung Hoa.

Khi biết tung tích của Thảo Ðường thiền sư, vua Thánh Tông liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Ðường lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Ðệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Ðường lập ra một phái Thiền Tông thứ ba ở Việt-Nam. Phái Thảo Ðường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thầy được mười chín vị.

4.- Phái Trúc Lâm:

Ðệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tông (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giử vững nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ”Hương Vân Ðại Ðầu Ðà ” lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách rất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi.

Trong các phái Thiền tôn ở Việt-Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn sư, Ngài Huyền Quang tôn sư …

5.- Phái Lâm Tế:

Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, Mở trường dạy học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng.

Sau Ngài phụng mạng đức Anh Tông ( Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Ðông mời được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúc Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung.

Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau đây:

Tịch tịch, kính vô ảnh

Minh minh, châu bát dụng

Dường đường, vật phi vật

Liểu liểu, không vật không

Ðại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý ”chân không diệu hữu”.

Xét trong” Lịch truyền tổ đồ ” thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là sơ tổ.

6.- Phái Liễu Quán:

Phái Liểu-quán xuất phát từ Liểu-Quán-Hòa-Thượng. Ngài Liểu-quán quê ở Phú-yên (Song-cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sang-Di với Ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long-Sơn cầu học pháp tham-thiền với Ngài Tử-Dung Hòa-Thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Ðàm Huế, người Trung Hoa).

Tổ Tử-Dung dạy Ngài tham-cứu câu: ”Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ ”, (muôn pháp về một, một pháp về đâu?) . Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền-Ðăng-Lục, thấy có câu: ” Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ ”. Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: ” nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây ”.

Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: ” các người khóc làm gì? các Ðức-Phật ra đời còn nhập niết-bàn. Ta nay đi đến rỏ ràng, về có chổ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm ”.

Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây :

Nguyên văn:

Thất thập dư niên thế-giới trung

Không không, sắc sắc diệu dung thông

Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý

Hà tất bôn ba vấn tổ tông.

Dịch nghĩa:

Ngoài bảy mươi năm trong thế-giới

Không không, sắc sắc thảy dung thông

Ngày nay nguyện mãn về nơi củ

Hà phải ân cần hỏi tổ tông.

Viết xong, Ngài bảo môn đồ:

Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô-thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.

Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm Nhâm-Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ.

Ðến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rỏ ràng điễm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiên-Tông do người Việt sáng lập chỉ có một Phái duy nhất do vua Trần-Nhân-Tông làm Sơ-tổ là phái Trúc-Lâm Yên-Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái Liểu-quán, do Ngài Liểu-quán một danh tăng Việt-Nam chủ xướng, như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền-Tông khác ở Việt-Nam, thì phái Liểu-quán chỉ một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh miền Trung-Việt.

Vả lại, Ngài Liểu-quán cũng là đệ-tử của Ngài Tử-Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm-Tế. Do đó, pháp Liểu-quán, nếu chúng ta đi tìm nguồn góc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm-tế mà thôi.

Các Kinh Sách Nói Về Thiền

Khi kinh sách nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, đễ quý độc-giả khỏi bỡ-ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số sách thiết yếu sau đây:

1.-Kinh Lăng-già

2.-Kinh Lăng-Nghiêm

3.-Kinh Viên-Giác

4.-Kinh Pháp-Bảo-Ðàn

5.-Ðại-thừa Chỉ-quán

6.-Tiểu Chỉ-quán

8.-Ðồng môm Chỉ-quán

9.-Kinh Kim-cang

10.-Truyền-đăng-lục

11.-Thuyền-gia ngữ-lục

12.-Tọa-thiền chỉ nam

13.-Tông-cảnh-lục (của Ngài Tống Diên Thọ Thiền-sư)

14.-Luận Ðại-thừa khởi tín (của Bồ Tát Mã-Minh)

15.-Vô-môn-quán (của Tổng Tôn-Thiện Thiền-sư)

16.-Bích-Nham-Lục (của Phật quả Viên-ngộ)

17.-Thung-dung-lục (của Vạn tùng Lão-nhơn)

18.-Thiền-lâm Vĩnh-gia tập (của Huyền-giác)

19.-Thiền-tông chỉ nam (của vua Trần-Thái-Tôn) .v.v…

C.- Tổng Kết các Loại Thiền định

Thiền-Ðịnh có nhiều loại, nhưng tóm lại có thể chia làm hai loại lớn: Chánh-định và tà-định, hay Phàm-phu thiền và Thánh-nhơn thiền và Phật Giáo thiền.

Thiền Ngoại Ðạo

Những người theo lối thiền-định này do tâm niệm không chơn-chánh (phiền-nảo, tham, sân, si v.v….) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô-minh phiền-não, cầu được minh-tâm kiến-tánh, hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần-thông biến-hóa để đi dạo chơi ở các thế-giới khác, cầu thành tiên để lạc-thú tiêu-dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu cho được phép lạ để trị bệnh, để thiên hạ sùng-bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v..

Hảy lắng nghe lời Tổ Tông-Mật dạy: ” Người tà kiến chấp trước sai lầm, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền ”.

Thiền Phàm Phu

Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục làm ô-trược mà cấu sinh về cõi sắc và Vô-sắc để hưởng thú vui thanh thoát.

Hãy lắng nghe Tổ Tông-Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này: ” Người chán tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm-phu thiền ”.

Thiền Phật Giáo

Thiền-định của Phật Giáo có hai loại: Tiểu-thừa thiền và Ðại-thừa thiền.

- Tiểu-thừa thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu-thừa. Người tu phép Thiền-định này chỉ có công-dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền-não của pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ ngay được.

Hơn nữa, người tu Tiểu-thừa thiền, tuy đã phá ngã-chấp, nhưng còn bị pháp-chấp. Họ không ngộ được rằng: những phương-pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô-minh phiền não, tiến lên chổ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có nên tu, thật chứng.

– Ðại-thừa thiền: Ðây là phương-pháp tu thiền của các vị Bồ Tát, căn tánh mau lẹ, vượt bực. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay chỉ tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như Ngài Huệ-Năng, chỉ nghe câu ” Ưng vô sở trụ, nhi sanh ký tâm ”, hay Ngài Ca-Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ

Sở dĩ các vị này mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát-chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông.

Hãy nghe Tổ Tôn-Mật nói về các vị này: ” Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Ðại-thừa thiền. Người đốn-ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh-tịnh, không có phiền-não, đầy đủ trí-huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tân này mà tu thiền là Tối-thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn-như tam-muội ”.

Vè phương-pháp tu chứng và truyền thọ của Ðại-thừa thiền có ba cách:

– Cách thứ nhất: Ðây là các loại tam-muội mà hành-giả căn cứ theo các kinh sách Ðại-thừa tu luyện, như Pháp-hoa tam-muội, Niệm-Phật tam-muội, Giác-ý tam-muội, Thủ-tăng-liêm tam-muội v.v….

– Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi để chỉ giáo. Trong Phật Giáo gọi lối thiền này là: ” Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền ” (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền-giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham-cứu này, Thiền-giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm.

– Cách thứ ba: Với cách này, chúng ta khó có thể say nghĩ luận bàn gì được. Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các Tổ sư không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi.

Như dòng Lâm-Tê, khi có người đến cầu đạo, Thiền-sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét.

Như dòng Quy-ngưỡng, các vị Tổ-sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ-tử .

Như dòng Vân-môn, có vị Tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ.

Như có Ngài chỉ đãi nước trà (Ngài Triệu-châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ.

Có Ngài lại ngắm bóng mình cưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hổ khê tam chiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho để tan mà liền tỏ ngộ.

Thật là thiền-cơ nhiệm-mầu, người ngoài không thê rsay nghĩ, bàn luận được.

Muốn cho người cầu đạo được kết-quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba diều kiện sau đây:

-Biết văn-cơ người cầu đạo.

-Biết thời-tiết đúng lúc truyền đạo.

-Biết phương-pháp nào thích hợp, trong ba phương-pháp nói trên, nếu truyền bá không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết-quả.

Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây mà chắc quý độc-giả cũng đồng ý là: Nước ta ngày xưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền-tông, và Thiền-tôn là môn phái rất thịnh hành trong nước. Thế mà ngày nay, vì bao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền-tông không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung-mậu như xưa nữa.

Vậy chúng tôi hy-vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao-thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ gia tâm tu học của các Phật-tử Việt-Nam, Thiền-tông sẽ lấy lại sắc thái sung-mậu ở Việt-Nam như các thời Lý, Trần.

(- còn tiếp -)

[ Quay lại ]