THIỀN SƯ BỔN TỊNH
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ ba, 18 Tháng mười một 2008 08:10
- Viết bởi nguyen
(? - 761)
Sư họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục tổ Huệ Năng được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.
Ðời Ðường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L.) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Ðình vào núi cắt dây thường xuân. Dương Quang Ðình tình cờ gặp được thất của Sư. Ðình lễ bái thưa:
- Ðệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.
Sư bảo:
- Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về Kinh sư (kinh đô vua), thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở gọp núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.
Quang Ðình thiết tha khóc lóc lễ lạy.
Sư bảo:
- Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?
Ðình thưa:
- Ðệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Ðạo nghĩa ấy thế nào?
Sư bảo:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội Ðạo, không tâm là Ðạo.
- Thế nào tức tâm là Phật?
- Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.
- Thế nào không tâm là Ðạo?
- Ðạo vốn không tâm, không tâm gọi là Ðạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Ðạo vậy.
Quang Ðình đảnh lễ tin nhận.
Trở về triều, Quang Ðình tâu hết việc trong núi cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Ðình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, Vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.
Ðến ngày rằm tháng hai năm sau, Vua mời hết những danh Tăng và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư xiển dương Phật lý.
Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:
- Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?
Sư đáp:- Không tâm là đạo.
Viễn hỏi:- Ðạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?
Sư đáp:
- Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
Viễn hỏi:- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?
Sư đáp:- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
Viễn hỏi:
- Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
Viễn hỏi:- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?
Sư đáp:
- Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói "phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia". Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn bảo:- Nay thỉnh Thiền sư ở trên tướng nói không tướng.
Sư đáp:
- Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.
Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.
Sư có bài kệ:
Tứ đại vô chủ phục như thủy
Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử
Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm
Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý
Xúc cảnh đản tợ thủy vô tâm
Tại thế tung hoành hữu hà sự.
Dịch:
Bốn đại không chủ cũng như nước
Dù gặp cong ngay chẳng kia đây
Hai nơi nhơ sạch tâm không sanh
Thông bít chưa từng có hai ý
Xúc cảnh chỉ như nước không tâm
Ở thế tung hoành nào có việc?
Một đại như thế, bốn đại cũng vậy. Nếu rõ bốn đại không chủ tức ngộ không tâm. Nếu rõ không tâm tự nhiên hợp đạo.
*
Thiền sư Minh Chí hỏi:
- Nếu nói không tâm là đạo, ngói gạch không tâm cũng ưng là đạo? Thân tâm xưa nay là đạo, tứ sanh thập loại đều có thân tâm cũng ưng là đạo?
Sư đáp:
- Ðại đức nếu hiểu bằng vào thấy nghe hiểu biết thì cùng đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết, không phải là người cầu đạo. Kinh nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý...". Sáu căn còn không, thấy nghe hiểu biết nương đâu mà lập. Cùng tột gốc nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Ðâu không đồng với cỏ cây ngói gạch.
Minh Chí lặng thinh thối lui.
Sư có bài kệ:
Kiến văn giác tri vô chướng ngại
Thanh hương vị xúc thường tam-muội
Như điểu không trung chỉ ma phi
Vô thủ vô xả vô tắng ái
Nhược hội ứng xứ bản vô tâm
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
Dịch:
Thấy nghe hiểu biết không chướng ngại
Tiếng mùi vị chạm thường tam-muội
Như chim trong không mặc tình bay
Không thủ không xả không thương ghét
Nếu hội mỗi nơi vốn không tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại.
*
Thiền sư Chơn hỏi:
- Ðạo đã không tâm, Phật có tâm chăng? Phật cùng với đạo là một, là khác?
Sư đáp:- Chẳng một chẳng khác.
Chơn hỏi:
- Phật độ chúng sanh vì có tâm, đạo không độ chúng sanh vì không tâm. Một độ một không độ đâu được không khác?
Sư đáp:
- Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo không độ, đây là Ðại đức vọng sanh thấy hai. Theo Sơn tăng tức chẳng phải vậy. Phật là tên suông, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, toàn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?
Chơn hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, chính khi lập danh nhân cái gì mà lập? Nếu có lập được, đâu thể nói là không?
Sư đáp:
- Phật với đạo nhân tâm mà lập, xét cùng cái tâm dựng lập, tâm ấy cũng không, tâm đã là không liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ vốn không. Gắng lập hai tên Phật, Ðạo, đây là cái thấy biết của người Nhị thừa.
Sư bèn nói bài kệ (Không Tu, Không Tác):
Kiến đạo phương tu đạo
Bất kiến phục hà tu
Ðạo tánh như hư không
Hư không hà sở tu
Biến quán tu đạo giả
Bác hỏa mích phù âu
Ðản khán lộng khối lỗi
Tuyến đoạn nhất thời hưu.
Dịch:
Thấy đạo mới tu đạo
Chẳng thấy lấy gì tu
Tánh đạo như hư không
Hư không tu chỗ nào?
Khắp xem người tu đạo
Vạch lửa tìm bọt nổi
Chỉ xem người gỗ máy
Ðứt dây một lúc dừng.
*
Thiền sư Pháp Không hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng phải chẳng thật, vì sao các hàng tôn túc từ xưa đều nói có tu có đạo?
- Ðại đức lầm hội ý kinh; đạo vốn không tu, Ðại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Ðại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Ðại đức cưỡng sanh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Ðại đức không hội, xin suy gẫm đó.
Sư có bài kệ:
Ðạo thể bản vô tu
Bất tu tự hiệp đạo
Nhược khởi tu đạo tâm
Thử nhân bất hội đạo
Khí khước nhất chân tánh
Khước nhập náo hạo hạo
Hốt phùng tu đạo nhân
Ðệ nhất mạc hướng đạo.
Dịch:
Thể đạo vốn không tu
Chẳng tu tự hiệp đạo
Nếu khởi tâm tu đạo
Người này không hiệp đạo
Bỏ mất một tánh chân
Lại vào nơi phiền lụy
Chợt gặp người tu đạo
Bậc nhất chớ hướng đạo.
*
Thiền sư An hỏi:
- Ðạo đã giả danh, Phật nói dối lập, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng là phương tiện tiếp vật độ sanh, tất cả là vọng lấy gì làm chân?
Sư đáp:
- Vì có vọng nên đem chân đối vọng. Xét cùng tánh vọng vốn không, chân cũng chưa từng có. Thế thì biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị trọn không thật thể, tột cội gốc nó thì tất cả đều không.
An hỏi:
- Ðã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng không khác, lại là vật gì?
Sư đáp:
- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói "không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng, như chim bay trong không".
Thiền sư An thầm phục mà không biết mối manh.
Sư có bài kệ:
Suy chân, chân vô tướng
Cùng vọng, vọng vô hình
Phản quán suy cùng tâm
Tri tâm diệc giả danh
Hội đạo diệc như thử
Ðáo đầu diệc tự ninh.
Dịch:
Xét chân, chân không tướng
Tìm vọng, vọng không hình
Quán lại tâm tìm xét
Biết tâm cũng giả danh
Hội đạo cũng như vậy
Ðến cùng chỉ lặng yên.
*
Thiền sư Ðạt Tánh hỏi:
- Thiền thật chí vi chí diệu, chân vọng cả hai đều bặt, Phật, đạo cả hai chẳng còn, tu hành tánh là không, danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Khi người đạt đến cái hiểu biết này cũng không thể đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh!
Sư đáp:
- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm tột tâm nếu có thì gốc ắt thật, xét tâm đã không thì gốc nhân đâu mà lập. Kinh nói:
"Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có."
Sư nói bài kệ:
Thiện ký tùng tâm sanh
Ác khởi ly tâm hữu
Thiện ác thị ngoại duyên
Ư tâm thật bất hữu
Xả ác tống hà xứ
Thủ thiện linh thùy thủ
Thương nha nhị kiến nhân
Phan duyên lưỡng đầu tẩu
Nhược ngộ bản vô tâm
Thủy hối tùng tiền cựu.
Dịch:
Thiện đã từ tâm sanh
Ác đâu rời tâm có
Thiện ác là duyên ngoài
Nơi tâm thật chẳng có
Bỏ ác đẩy chỗ nào?
Lấy thiện bảo ai giữ?
Than ôi! Người thấy hai
Bám víu hai đầu chạy.
Nếu ngộ vốn không tâm
Mới hối lỗi từ trước.
*
Vị quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu mà đến? Sau khi trăm tuổi trở về đâu?
Sư đáp:
- Như người khi mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc lại đi về đâu?
Quan thưa:
- Khi mộng không thể nói không, đã thức không thể nói có. Tuy có mà không từ đâu đến, đi không đi về đâu.
Sư nói:- Bần đạo thấy thân này cũng như mộng.
Có bài kệ:
Thị sanh như tại mộng
Mộng lý thật thị náo
Hốt giác vạn sự hưu
Hườn đồng thùy thời ngộ
Trí giả hội ngộ mộng
Mê nhân tín mộng náo
Hội mộng như lưỡng ban
Nhất ngộ vô biệt ngộ
Phú quí dữ bần tiện
Cánh diệc vô biệt lộ.
Dịch:
Thấy cuộc sống như mộng
Trong mộng thật là ồn
Chợt giác muôn việc hết
Lại đồng tỉnh cơn mộng
Người trí nhận biết mộng
Kẻ mê tin mộng ồn
Biết mộng như hai việc
Một ngộ không ngộ khác
Giàu sang cùng nghèo hèn
Lại cũng không đường khác.
*
Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761 T.L.), ngày mùng năm tháng năm, Sư qui tịch.
Vua sắc ban hiệu là Ðại Hiển Thiền sư.