headertvtc new


   Hôm nay Thứ hai, 25/11/2024 - Ngày 25 Tháng 10 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

khanhtueSuOng2024

THIỀN SƯ BỔN TỊNH

(? - 761)

Sư họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục tổ Huệ Năng được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.

Ðời Ðường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L.) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Ðình vào núi cắt dây thường xuân. Dương Quang Ðình tình cờ gặp được thất của Sư. Ðình lễ bái thưa:

- Ðệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.
Sư bảo:
- Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về Kinh sư (kinh đô vua), thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở gọp núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.
Quang Ðình thiết tha khóc lóc lễ lạy.
Sư bảo:
- Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?
Ðình thưa:
- Ðệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Ðạo nghĩa ấy thế nào?
Sư bảo:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội Ðạo, không tâm là Ðạo.
- Thế nào tức tâm là Phật?
- Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.
- Thế nào không tâm là Ðạo?
- Ðạo vốn không tâm, không tâm gọi là Ðạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Ðạo vậy.
Quang Ðình đảnh lễ tin nhận.
Trở về triều, Quang Ðình tâu hết việc trong núi cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Ðình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, Vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.
Ðến ngày rằm tháng hai năm sau, Vua mời hết những danh Tăng và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư xiển dương Phật lý.
Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:
- Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?
Sư đáp:- Không tâm là đạo.
Viễn hỏi:- Ðạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?
Sư đáp:
- Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
Viễn hỏi:- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?
Sư đáp:- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
Viễn hỏi:
- Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
Viễn hỏi:- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?
Sư đáp:
- Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói "phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia". Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn bảo:- Nay thỉnh Thiền sư ở trên tướng nói không tướng.
Sư đáp:
- Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.

Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.

Sư có bài kệ:
                            Tứ đại vô chủ phục như thủy
                            Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử
                            Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm
                            Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý
                            Xúc cảnh đản tợ thủy vô tâm
                            Tại thế tung hoành hữu hà sự.
    Dịch:

                            Bốn đại không chủ cũng như nước
                            Dù gặp cong ngay chẳng kia đây
                            Hai nơi nhơ sạch tâm không sanh
                            Thông bít chưa từng có hai ý
                            Xúc cảnh chỉ như nước không tâm
                            Ở thế tung hoành nào có việc?

Một đại như thế, bốn đại cũng vậy. Nếu rõ bốn đại không chủ tức ngộ không tâm. Nếu rõ không tâm tự nhiên hợp đạo.

*

Thiền sư Minh Chí hỏi:
- Nếu nói không tâm là đạo, ngói gạch không tâm cũng ưng là đạo? Thân tâm xưa nay là đạo, tứ sanh thập loại đều có thân tâm cũng ưng là đạo?
Sư đáp:
- Ðại đức nếu hiểu bằng vào thấy nghe hiểu biết thì cùng đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết, không phải là người cầu đạo. Kinh nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý...". Sáu căn còn không, thấy nghe hiểu biết nương đâu mà lập. Cùng tột gốc nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Ðâu không đồng với cỏ cây ngói gạch.

Minh Chí lặng thinh thối lui.

Sư có bài kệ:

                        Kiến văn giác tri vô chướng ngại
                        Thanh hương vị xúc thường tam-muội
                        Như điểu không trung chỉ ma phi
                        Vô thủ vô xả vô tắng ái
                        Nhược hội ứng xứ bản vô tâm
                        Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.

    Dịch:

                        Thấy nghe hiểu biết không chướng ngại
                        Tiếng mùi vị chạm thường tam-muội
                        Như chim trong không mặc tình bay
                        Không thủ không xả không thương ghét
                        Nếu hội mỗi nơi vốn không tâm
                        Mới được tên là Quán Tự Tại.

*

Thiền sư Chơn hỏi:
- Ðạo đã không tâm, Phật có tâm chăng? Phật cùng với đạo là một, là khác?
Sư đáp:- Chẳng một chẳng khác.
Chơn hỏi:
- Phật độ chúng sanh vì có tâm, đạo không độ chúng sanh vì không tâm. Một độ một không độ đâu được không khác?
Sư đáp:
- Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo không độ, đây là Ðại đức vọng sanh thấy hai. Theo Sơn tăng tức chẳng phải vậy. Phật là tên suông, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, toàn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?
Chơn hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, chính khi lập danh nhân cái gì mà lập? Nếu có lập được, đâu thể nói là không?
Sư đáp:
- Phật với đạo nhân tâm mà lập, xét cùng cái tâm dựng lập, tâm ấy cũng không, tâm đã là không liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ vốn không. Gắng lập hai tên Phật, Ðạo, đây là cái thấy biết của người Nhị thừa.
Sư bèn nói bài kệ (Không Tu, Không Tác):

                        Kiến đạo phương tu đạo
                        Bất kiến phục hà tu
                        Ðạo tánh như hư không
                        Hư không hà sở tu
                        Biến quán tu đạo giả
                        Bác hỏa mích phù âu
                        Ðản khán lộng khối lỗi
                        Tuyến đoạn nhất thời hưu.

    Dịch:
                        Thấy đạo mới tu đạo
                        Chẳng thấy lấy gì tu
                        Tánh đạo như hư không
                        Hư không tu chỗ nào?
                        Khắp xem người tu đạo
                        Vạch lửa tìm bọt nổi
                        Chỉ xem người gỗ máy
                        Ðứt dây một lúc dừng.

*

Thiền sư Pháp Không hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng phải chẳng thật, vì sao các hàng tôn túc từ xưa đều nói có tu có đạo?
- Ðại đức lầm hội ý kinh; đạo vốn không tu, Ðại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Ðại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Ðại đức cưỡng sanh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Ðại đức không hội, xin suy gẫm đó.

Sư có bài kệ:

                    Ðạo thể bản vô tu
                    Bất tu tự hiệp đạo
                    Nhược khởi tu đạo tâm
                    Thử nhân bất hội đạo
                    Khí khước nhất chân tánh
                    Khước nhập náo hạo hạo
                    Hốt phùng tu đạo nhân
                    Ðệ nhất mạc hướng đạo.

    Dịch:

                Thể đạo vốn không tu
                Chẳng tu tự hiệp đạo
                Nếu khởi tâm tu đạo
                Người này không hiệp đạo
                Bỏ mất một tánh chân
                Lại vào nơi phiền lụy
                Chợt gặp người tu đạo
                Bậc nhất chớ hướng đạo.

*

Thiền sư An hỏi:
- Ðạo đã giả danh, Phật nói dối lập, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng là phương tiện tiếp vật độ sanh, tất cả là vọng lấy gì làm chân?
Sư đáp:
- Vì có vọng nên đem chân đối vọng. Xét cùng tánh vọng vốn không, chân cũng chưa từng có. Thế thì biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị trọn không thật thể, tột cội gốc nó thì tất cả đều không.
An hỏi:
- Ðã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng không khác, lại là vật gì?
Sư đáp:
- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói "không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng, như chim bay trong không".
Thiền sư An thầm phục mà không biết mối manh.

Sư có bài kệ:

                        Suy chân, chân vô tướng
                        Cùng vọng, vọng vô hình
                        Phản quán suy cùng tâm
                        Tri tâm diệc giả danh
                        Hội đạo diệc như thử
                        Ðáo đầu diệc tự ninh.

     Dịch:
                        Xét chân, chân không tướng
                        Tìm vọng, vọng không hình
                        Quán lại tâm tìm xét
                        Biết tâm cũng giả danh
                        Hội đạo cũng như vậy
                        Ðến cùng chỉ lặng yên.

*

Thiền sư Ðạt Tánh hỏi:
- Thiền thật chí vi chí diệu, chân vọng cả hai đều bặt, Phật, đạo cả hai chẳng còn, tu hành tánh là không, danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Khi người đạt đến cái hiểu biết này cũng không thể đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh!
Sư đáp:
- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm tột tâm nếu có thì gốc ắt thật, xét tâm đã không thì gốc nhân đâu mà lập. Kinh nói:
"Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có."

Sư nói bài kệ:

                        Thiện ký tùng tâm sanh
                        Ác khởi ly tâm hữu
                        Thiện ác thị ngoại duyên
                        Ư tâm thật bất hữu
                        Xả ác tống hà xứ
                        Thủ thiện linh thùy thủ
                        Thương nha nhị kiến nhân
                        Phan duyên lưỡng đầu tẩu
                        Nhược ngộ bản vô tâm
                        Thủy hối tùng tiền cựu.

    Dịch:
                        Thiện đã từ tâm sanh
                        Ác đâu rời tâm có
                        Thiện ác là duyên ngoài
                        Nơi tâm thật chẳng có
                        Bỏ ác đẩy chỗ nào?
                        Lấy thiện bảo ai giữ?
                        Than ôi! Người thấy hai
                        Bám víu hai đầu chạy.
                        Nếu ngộ vốn không tâm
                        Mới hối lỗi từ trước.

*

Vị quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu mà đến? Sau khi trăm tuổi trở về đâu?
Sư đáp:
- Như người khi mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc lại đi về đâu?
Quan thưa:
- Khi mộng không thể nói không, đã thức không thể nói có. Tuy có mà không từ đâu đến, đi không đi về đâu.
Sư nói:- Bần đạo thấy thân này cũng như mộng.

Có bài kệ:

                    Thị sanh như tại mộng
                    Mộng lý thật thị náo
                    Hốt giác vạn sự hưu
                    Hườn đồng thùy thời ngộ
                    Trí giả hội ngộ mộng
                    Mê nhân tín mộng náo
                    Hội mộng như lưỡng ban
                    Nhất ngộ vô biệt ngộ
                    Phú quí dữ bần tiện
                    Cánh diệc vô biệt lộ.

    Dịch:
                    Thấy cuộc sống như mộng
                    Trong mộng thật là ồn
                    Chợt giác muôn việc hết
                    Lại đồng tỉnh cơn mộng
                    Người trí nhận biết mộng
                    Kẻ mê tin mộng ồn
                    Biết mộng như hai việc
                    Một ngộ không ngộ khác
                    Giàu sang cùng nghèo hèn
                    Lại cũng không đường khác.

*

Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761 T.L.), ngày mùng năm tháng năm, Sư qui tịch.
Vua sắc ban hiệu là Ðại Hiển Thiền sư.
 

[ Quay lại ]