CƯ SĨ LONG UẨN
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ Sáu, 02 Tháng một 2009 04:49
- Viết bởi nguyen
Ông người huyện Hành Dương, Xung Châu, tự là Ðạo Huyền, gia thế chuyên nghiệp Nho, đời sống rất thanh đạm, hiểu ngộ ít phần trần lao, quyết chí cầu giải thoát.
Ðời Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785 T.L.), ông đến yết kiến Hòa thượng Thạch Ðầu, hỏi:
- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?
Thạch Ðầu lấy tay bụm miệng ông. Ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Một hôm Thạch Ðầu hỏi:
- Từ ngày ông thấy Lão tăng đến nay hằng ngày ông làm việc gì?
Ông thưa:
- Nếu hỏi việc làm hằng ngày tức không có chỗ mở miệng.
Ông liền trình một bài kệ:
Nhật dụng sự vô biệt
Duy ngô tự ngẫu hài
Ðầu đầu phi thủ xả
Xứ xứ vật tương oai
Châu tử thùy vi hiệu
Khưu sơn tuyệt điểm ai
Thần thông tịnh diệu dụng
Vận thủy cập ban sài.
Dịch:
Hằng ngày không việc khác
Chỉ tôi tự biết hay
Vật vật chẳng bỏ lấy
Chỗ chỗ nào trái bày
Ðỏ tía gì làm hiệu
Núi gò bặt trần ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước bửa củi tài.
Thạch Ðầu hứa khả, bảo:- Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia?
Ông thưa:- Xin cho con theo sở nguyện không cạo tóc xuất gia.
Ông đến tham vấn Mã Tổ, hỏi:
- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?
Mã Tổ bảo:
- Ðợi miệng ông hút hết nước Giang Tây, ta sẽ nói với ông.
Ngay câu nói này, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ Mã Tổ hai năm.
*
Sau khi đốn ngộ, ông về nhà lấy thuyền chở của cải đem đổ xuống sông Tương. Ông chỉ cất một cái thất nhỏ ở tu hành. Có người con gái tên Linh Chiếu thường theo hầu hạ, chuyên việc chẻ tre bện sáo bán nuôi cha.
Ông có làm bài kệ:
Hữu nam bất thú
Hữu nữ bất giá
Ðại gia đoàn biến đầu
Cọng thuyết vô sanh thoại.
Dịch:
Có trai không cưới
Có gái không gả
Cả nhà chung hội họp
Ðồng bàn lời vô sanh.
Ông nói năng lanh lợi, các nơi đều nghe tiếng. Ông thường đến các chỗ giảng kinh phát tâm tùy hỉ.
Có vị Sư giảng kinh Kim Cang đến chỗ "vô ngã vô nhân". Ông bèn hỏi:
- Tọa chủ đã "vô ngã vô nhân" (không ta không người), vậy ai giảng ai nghe?
Tọa chủ không đáp được.
Ông nói:- Tuy tôi là người tục cũng tin biết thô thiển.
Tọa chủ hỏi:- Theo cư sĩ ý thế nào?
Ông bèn giải bằng bài kệ:
Vô ngã phục vô nhân
Tác ma hữu sơ thân
Khuyến quân hưu lịch tọa
Bất tợ trực cầu chân
Kim Cang Bát-nhã tánh
Ngoại tuyệt nhất tim trần
Ngã văn tịnh tín thọ
Tổng thị giả danh trần.
Dịch:
Không ngã lại không nhân
Làm gì có thân sơ
Khuyên ông đừng ngồi mãi
Ðâu bằng thẳng cầu chân
Tánh Kim Cang Bát-nhã
Chẳng dính một mảy trần
Tôi nghe với tin nhận
Thảy đều giả danh trần.
Tọa chủ nghe kệ rồi, vui vẻ khen ngợi:
- Chỗ cư sĩ đến phần nhiều các bậc lão túc đã qua.
*
Ông đến viếng Ðơn Hà. Ðơn Hà làm thế chạy.
Ông nói:- Vẫn là thế phóng thân, thế nào là thế tần thân?
Ðơn Hà liền ngồi.
Ông lấy gậy vẽ dưới đất chữ Thất.
Ðơn Hà vẽ đáp chữ Nhất.
Ông nói:- Nhân bảy thấy một, thấy một quên bảy.
Ðơn Hà đứng dậy đi.
Ông gọi:- Hãy ngồi nán một chút, vẫn còn câu thứ hai.
Ðơn Hà bảo: - Trong ấy nói được sao?
Ông bèn khóc ra đi.
*
Một hôm, ngồi trong am, ông chợt nói:
- Khó khó mười tạ dầu mè trên cây vuốt. (Nan nan thập thạch du ma thọ thượng than.)
Long bà đáp:
- Dễ dễ trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư. (Dị dị bách thảo đầu thượng Tổ sư ý.)
Linh Chiếu tiếp:
- Cũng chẳng khó cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. (Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai khiết phạn khốn lai thùy.)
*
Ông ngồi hỏi Linh Chiếu:
- Cổ nhân nói: "sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư" (minh minh bách thảo đầu, minh minh Tổ sư ý) là sao?
Linh Chiếu thưa:
- Lớn lớn già già thốt ra lời nói ấy. (Lão lão đại đại tác giá cá ngữ thoại.)
Ông hỏi:- Con thế nào?
- Sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư.
Ông bèn cười.
*
Ông có làm bài kệ:
Tâm như cảnh diệc như
Vô thật diệc vô hư
Hữu diệc bất quản
Vô diệc bất cư
Bất thị Hiền Thánh
Liễu sự phàm phu
Dị phục dị
Tức thử ngũ uẩn hữu chân trí
Thập phương thế giới nhất thừa đồng
Vô tướng pháp thân khởi hữu nhị
Nhược xả phiền não nhập Bồ-đề
Bất tri hà phương hữu Phật địa.
Dịch:
Tâm như cảnh cũng như
Không thật cũng không hư
Có cũng chẳng quản
Không cũng chẳng cư
Chẳng phải hiền thánh
Xong việc phàm phu
Dễ lại dễ
Tức năm uẩn này có chân trí
Thế giới mười phương đồng một thừa
Pháp thân không tướng nào có nhị
Nếu bỏ phiền não vào Bồ-đề
Chẳng biết nơi nào có Phật địa?
Lại có bài kệ:
Hộ sanh tu thị sát
Sát tận thủy an cư
Hội đắc cá trung ý
Thiết truyền thủy thượng phù.
Dịch:
Hộ sanh cần phải giết
Giết hết mới ở yên
Hiểu được ý trong đó
Thuyền sắt nổi phao phao.
*
Sắp tịch, ông bảo Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem vào thưa:
- Mặt trời đã đúng ngọ, mà có nguyệt thực.
Ông ra cửa xem.
Linh Chiếu lên tòa của ông ngồi kiết già chấp tay thị tịch.
Ông vào xem thấy cười, nói:- Con gái ta lanh lợi quá!
Ông bèn chậm lại bảy ngày sau.
*
Châu mục Vu Công đến thăm bệnh ông.
Ông bảo:
- Chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang.
Nói xong, ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà thị tịch.
*
Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay.
Bà nói:
- Con gái ngu si với ông già vô tri, không báo tin mà đi, sao đành vậy?
Bà ra báo tin cho con trai đang làm ngoài đồng. Bà nói:
- Long công với Linh Chiếu đi rồi con!
Người con trai đang bừa đáp:- Dạ!
Rồi lặng thinh giây lâu bèn đứng mà tịch.
Bà nói:- Thằng này sao ngu si lắm vậy!
Lo thiêu con xong, bà đi từ biệt thân thuộc rồi biệt tích.
*
Ông Long Uẩn có làm thi kệ hơn ba trăm thiên còn lưu truyền ở đời.