TA LÀ GÌ ?
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ Sáu, 16 Tháng mười 2015 14:43
I. XÁC ĐỊNH RÕ CÁI GÌ LÀ TA ?
Nói chung, Đức Phật ra đời thuyết pháp độ sanh, cũng để chỉ rõ cho người nhận kỹ điều này, khiến người mở sáng mắt đạo, thấy đúng lẽ thật nơi con người đang sống giữa cuộc đời này chứ gì? Nghĩa là, sống mà không biết gì là Ta? Ai đang sống đây? Thì sao gọi là sống? Chính mình là chủ của cuộc sống, bao nhiêu thứ tạo tác cũng để vì mình, mà hỏi đến: Mình là gì? Thì chới với, lúng túng đáp không xong, vậy cái gì sống đây? Sống có ý nghĩa gì? Đó gọi là sống cũng như chết. Con người thông thường cứ lo tìm biết điều này, điều nọ, biết cải trên sao Hoả, sao Mộc, nhưng khi hỏi đến: Ta là gì? Trả lời không thông, thử hỏi có thực tế chưa? Hòa thượng có ví dụ, một người chủ nhà, hỏi đến việc nhà người này, người khác thì trả lời vanh vách, nhưng khi hỏi đến việc nhà mình thì ú ớ không thông, vậy là chúng ta sẽ kết luận thế nào? Người đó có thực tế hay không ?
Điều quan trọng nhất là, đối với việc tu hành, nếu chúng ta không rõ được điều này cho chính xác thì tu hành khó tiến được, có khi còn lầm lạc nữa là khác. Chẳng hạn, nếu không rành rõ, đem cái ta giả dối này, làm cái nhân để tu cầu giải thoát, thì càng tu e càng phiền não thêm, hoặc càng tu, tình chấp ngã càng nặng thêm, tức cách xa con đường giải thoát. Bởi lầm lẫn "nhân quả" tu hành, lấy cái nhân sanh tử làm giải thoát, làm sao đến được giải thoát chân thật? Chính vì vậy, trước thời Phật ra đời, ở Ấn Độ có nhiều vị tu hành rất công phu, có sức thiền định cao, nhưng vẫn lẩn quẩn trong sanh tử. Như chuyện vị Phạm chí Hắc Thị tu đắc năm thần thông, thuyết pháp rất hay, đến cả Trời Đế-thích cũng xuống nghe pháp. Song, một hôm nghe vị ấy giảng xong, Trời Đế Thích tỏ vẻ buồn bã rơi lệ. Phạm chí thấy lạ bèn hỏi:
- Ngài vì sao buồn khóc như thế?
Trời Đế-thích nói:
- Tôi nghe Ngài giảng pháp rất hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn bảy ngày nữa thôi.
Phạm chí nghe xong hoảng sợ, xin Trời Đế-thích cứu cho. Trời Đế-thích từ chối mà chỉ ông đến Đức Phật. Phạm chí bèn vội đến chỗ Phật, trên đường ông thấy hai cây ngô đồng đang trổ hoa đẹp, liền dùng thần thông nhổ cả hai cây bưng trên hai tay đến cúng dường Phật. Phật gọi tiên nhân Phạm chí bảo:
- Hãy buông đi!
Phạm chí liền buông cây hoa ngô đồng trên tay trái. Phật lại bảo:
- Buông đi!
Phạm chí buông tiếp cây hoa ngô đồng trên tay phải. Phật lại bảo tiếp:
- Buông đi!
Phạm chí liền thưa:
- Bạch Thế Tôn! Hai tay con đều trống cả rồi, Ngài còn bảo con buông cái gì nữa?
Phật bảo:
- Ta chẳng phải bảo ông buông gốc hoa đó, mà chính là bảo ông buông xả sáu trần bên ngoài, sáu căn bên trong và sáu thức ở giữa kia kìa; tất cả một lúc buông sạch hết không còn chỗ nào để buông nữa, ngay đó chính là chỗ ông thoát khỏi sanh tử.
Phạm chí ngay đó liền tỏ ngộ pháp vô sanh, lễ tạ Phật.
Như vậy, cho thấy rằng, dù tu đắc năm thần thông mà chưa đạt lậu tận thông, tức sạch hết tình chấp ngã này, vẫn chưa khỏi vòng sanh tử luân hồi. Vậy thì, ngay đây chúng ta hãy xác định rõ xem: Cái gì là Ta? Cái thây thúi 60, 70 ký lô này chăng? Cái khối đen trắng, mập ốm, cao thấp này chăng? Cái buồn thương, giận ghét, ích kỷ, kiêu căng, hơn thua, ta người này chăng? Nếu cái Ta chỉ có bấy nhiêu đó, thì cuối cùng sẽ ra sao? Tức là chung cuộc sẽ: Ô hô! Ra nghĩa địa! Tổ Lâm Tế từng dạy: "Này huynh đệ! Các ông chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn này, trong khoảng sớm chiều nó liền trở về vô thường. Các ông nhằm trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm một miếng cơm ăn, một manh áo vá qua ngày ư? Cốt phải tìm hỏi bậc tri thức, chớ lần lựa đuổi theo thú vui! Thời giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, thô thì bị đất nước gió lửa, tế thì bị bốn tướng sanh trụ dị diệt". Đó là Ngài nhắc nhở cho người, phải tìm lấy một cái gì chân thật làm chỗ nương tựa vững bền lâu dài, chớ bám vào cái xác thân mộng huyễn vô thường này, dù cố gìn giữ cách mấy, cuối cùng cũng phải bỏ lại, tan hoại trả về với cát bụi! Người có thực tâm tu hành có thể lơ là với việc này sao ?
II. CHẤP NGÃ LÀ VÔ MINH ĐIÊN ĐẢO
Chính vì sự mê lầm, chấp trước lẫn lộn trái ngược trên đây, mà Đức Phật gọi chúng ta là vô minh điên đảo. Kinh Viên Giác, Phật từng định nghĩa vô minh như sau: "Phật bảo Bồ-tát Văn Thù: Nhân địa tu hành từ xưa của Như Lai là y tánh Viên Giác thanh tịnh mà dứt hẳn vô minh mới thành Phật. Thế nào là vô minh?… Tức tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, bị nhiều thứ điên đảo giống như kẻ mê, thấy bốn phương dời đổi, vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, bóng dáng duyên nơi sáu trần làm tướng tự tâm… do đó mà vọng có sự lưu chuyển trong sanh tử, nên gọi là vô minh".
Tức là Đức Phật muốn chỉ, chúng ta cứ chấp càn xác thân tứ đại giả hợp này làm ta, chấp bướng tâm suy nghĩ phân biệt sanh diệt lăng xăng duyên theo bóng dáng sáu trần làm ta, đó gọi là vô minh. Nghĩa là nhận cái sanh diệt tạm bợ làm ta, không vô minh là gì? Ta là cái sanh diệt như vậy sao? Bài Tâm Kinh Bát Nhã đã nói ngay từ đầu "Bồ-tát thực hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, soi thấu năm uẩn đều không". Là không thực có cái Ta trong đó. Song đây cũng chỉ là danh tự, chúng ta phải soi thấu: "Thế nào là không ?" bằng chính trí tuệ của chính mình mới là điều quan trọng. Đây chúng ta hãy soi một cách đơn giản thế này:
- Sắc, là đối với tâm mà có, mà tồn tại. Không có tâm, sắc này là xác chết thôi. Nói rộng ra, không có tâm thì cái gì biết sắc? Dù có sắc, sắc đó cũng như không, cũng là thế giới chết chứ gì. Do đối đãi mà thành, tự nó không có thật thể cố định, đó là sắc tức không, rõ ràng không nghi.
- Thọ, đối với cảnh bị thọ mà có, tức luôn luôn có thọ một cái gì. Nếu không có đối tượng để thọ, thì thọ mất bóng, rõ ràng nó không có tự thể hằng hữu, thọ tức là không.
- Tưởng, cũng luôn luôn tưởng một cái gì, phải có đối tượng để tưởng. Chúng ta thử tưởng một cái gì không có đối tượng để tưởng xem! Làm sao tưởng? Tưởng liền mất dấu ngay. Rõ ràng "tưởng tức không", nghĩa là không có thực thể của nó, chỉ đối duyên mà tạm có thôi.
- Hành, tức niệm niệm thầm kín bên trong, cũng luôn luôn là có niệm một cái gì đó, không đối tượng để niệm thì niệm cũng bặt, làm sao bảo nó thật có được.
- Thức, là phân biệt, cũng luôn luôn có đối tượng để phân biệt. Có phân biệt là phải có phân biệt cái gì. Không thể có cái phân biệt khơi khơi. Rời đối tượng phân biệt, thức bám vào đâu để tồn tại? Hiểu thấu chỗ này thì chúng ta thấy đầu mối tu hành dễ dàng. Anh ngồi thiền suy nghĩ thì cứ suy nghĩ, nhưng hãy suy nghĩ mà không có đối tượng để suy nghĩ xem! Làm sao suy nghĩ? Ngay đó tức nó lặng ngay thôi.
Xét tột năm uẩn như thế, thì cái ta bám vào chỗ nào? Tuy nhiên, giờ đây hãy gạt ra những kiến thức hiểu biết lâu nay đi, rồi chính ngay trong năm uẩn này chỉ ra xem: Cái gì là Ta? Xét cho thật kỹ, không phải chỉ hiểu suông, mà chiếu soi thật sự bằng chính con mắt tâm của chính mình! Ta, chỉ là một khái niệm chứ gì! Ai cũng cứ tưởng có một cái mang tên Ta, nó ngự trị trong thân này, nó làm chủ cuộc sống này. Do bám vào cái ngã tưởng đó mà sanh ra cống cao, ngã mạn, giành giựt hơn thua… tạo thành trăm ngàn, muôn thứ nghiệp, rồi chịu khổ luân hồi dài dài. Phật gọi đó là Tập Nhân của khổ. Chừng nào cái Tập Nhân này còn, là còn khổ mãi, còn đi trong sanh tử không dừng. Có một bà già đến hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Con mang thân nữ bị năm dây ràng buộc gây chướng ngại cho Phật tánh, làm sao thoát ly được những triền phược ấy?
Sư bảo:
- Bà hãy nguyện cho tất cả mọi người đều sanh lên cõi trời. Còn thân hèn này nguyện tiếp tục chịu trầm luân một mình trong biển khổ.
Đó là cách thuyết pháp đặc biệt của Thiền sư. Mới nghe qua, ai cũng lấy làm lạ, nhưng chính đó là lời đáp vi diệu. Bởi người cứ chấp chặt vào cái Ta này, mang thân nữ liền bám chặt vào tướng nữ, mang thân nam liền bám chặt vào tướng nam, thân đui mù, què quặt vẫn bám chặt vào nó không thể buông, do đó chịu khổ chứ gì! Giờ đây, phát nguyện như thế, tức là quên mình, quên cái ta này, chỉ nghĩ đến người, biết có người thôi. Đã quên ta, không thấy có ta thì lấy cái gì để khổ? Khổ bám vào đâu? Ngay đó liền hết khổ! Đó là cách đáp khéo léo mà xác đáng vô cùng!
Hiểu như vậy rồi, chúng ta hiểu thêm, từ chấp ta đó, kéo theo chấp cái của ta, tức ngã sở, cũng không dễ gì buông, có lúc còn muốn đậm hơn nữa. Trong nhà thiền có câu chuyện: Có vị tướng quân đã chán việc chiến trường đến Thiền sư Đại Huệ xin xuất gia. Ông thưa với Sư:
- Bạch thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần, xin thầy từ bi thu nhận con xuất gia, cho con làm đệ tử của thầy.
Sư bảo:
- Ông có gia đình, tập khí ngoài đời nặng nề, ông chẳng thể xuất gia, hãy thong thả từ từ!
Ông thưa:
- Bạch thầy, hiện tại cái gì con cũng đều bỏ được cả, vợ con, thê thiếp, gia đình đều không thành vấn đề đối với con, xin thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo:
- Hãy thong thả từ từ!
Ông đành chờ. Một hôm, ông dậy rất sớm đến trong chánh điện lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy, bèn hỏi:
- Tướng quân vì sao dậy sớm đến lễ Phật như thế?
Ông bắt chước dùng thi kệ thiền ngữ để đáp:
Vì trừ lửa trong tâm,
Dậy sớm lễ Sư trưởng.
Ngài Đại Huệ bèn cười, dùng kệ đáp lại:
Dậy sớm như thế ấy,
Chẳng sợ vợ ngủ người.
Ông vừa nghe, liền nổi giận mắng:
- Lão quái này, sao nói năng xúc phạm đến người quá vậy!
Thiền sư Đại Huệ liền cười ha hả, bảo:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt,
Tánh lửa đã bừng lên.
Nóng nảy hừng như thế,
Sao bảo buông xuống xong ?
Đây là cho thấy, bên ngoài bình thường chưa đụng cảnh, chúng ta cứ tưởng mình đã sạch chấp, đã không còn dính mắc, nhưng trong âm thầm tình chấp ngã, ngã sở vẫn còn ngủ ngầm đó, gặp cơ hội nó liền hiện lên. Do đó, trong nhà thiền thường nhắc nhở phải "hạnh giải tương ưng", hiểu và hành phải thật khế hợp, không thể chỉ hiểu suông cho là đủ.
Chuyện thứ hai, Hòa thượng Kim Bích Phong. Sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ gần bên mới an tâm. Có lần, nhân tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm-la sai quỷ đến bắt Sư. Song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười ngồi nhập định, xem vua Diêm-la làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư, đợi một ngày, hai ngày… không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý Thổ địa. Thổ địa bảo:
- Thiền sư Kim Bích Phong này rất thích cái bát ngọc, nếu ngươi có cách đem cái bát ấy đi, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe tiếng cái bát động, động niệm liền xuất định giữ lại! Quỷ thấy Sư xuất định, liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ đây xin mời Ngài theo tôi đến gặp vua Diêm-la.
Vừa nghe lời quỷ, Thiền sư Kim Bích Phong biết rõ do tâm tham ái cái bát làm mất đi huệ mạng ngàn năm của mình. Sư liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại và để bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong,
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không.
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ,
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong.
Tạm dịch:
Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong,
Trừ khi sắt luyện khóa hư không.
Nếu hay khóa được hư không ấy,
Trở lại bắt ta Kim Bích Phong.
Đó là vì có chút tình luyến ái vật sở hữu mà tâm bị động, tâm động liền có tướng hiện, tức bị quỷ thần xem thấy. May là Sư còn có sức định tỉnh mạnh, nếu không đã bị quỷ dẫn đi mất rồi! Chỗ này có thể dùng lý luận đến được sao ?
III. TINH THẦN VÔ NGÃ CỦA ĐẠO PHẬT
Hiểu qua điều lầm lẫn chấp ngã trên rồi, chúng ta lại phải thấu triệt tinh thần vô ngã của Phật dạy. Bởi vì, người đi vào đạo Phật đều phải đi qua cửa này. Ai chưa đi qua cửa này, đừng vội nói đến giải thoát làm gì cho nhọc miệng, cũng đừng vội vỗ ngực nói to!
1. Thế nào là Vô ngã ?
Chúng ta thường nghe nói vô ngã, vậy đó là vô cái ngã gì? Có cái ngã để vô hay không? Đây là điều phải xét cho thật thấu đáo. Bởi, có Ta thì mới vô, tức là không nó, phá nó; còn không có gì là Ta thì vô cái gì? Phá cái gì? Phá ngã, thì phải có cái ngã bị phá. Cho nên, chúng ta phải hiểu, đây là nhằm trừ cái ngã tưởng cho người, nghĩa là nó không thật có, mà tưởng là có, vì vậy nói không, để trừ cái "tưởng lầm" đó. Bởi nói là "tưởng" tức nó không thật có, dùng trí tuệ thấy đúng lẽ thật thì sẽ hết chấp, hết lầm. Nên nói trừ mà thật không có gì để trừ. Nếu thật có cái ngã để trừ, thì trừ nó bỏ đi đâu? Không khéo lại sanh thêm cái ngã mới để trừ cái ngã này, vẫn lẩn quẩn trong vòng ngã tưởng. Kinh Kim Cang đã nói: "Nói ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả tức chẳng phải ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, đó gọi là ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả". Tức là chớ lầm theo tiếng gọi, nghe nói tên "ngã" liền tưởng thật có cái ngã, rồi sanh tâm trừ nó, đó là lọt vào lưới danh từ, ngôn ngữ. Đem ngã dẹp ngã, vẫn chưa rời dấu vết tướng ngã. Đó là điều phải khéo thấy.
2. Nói vô ngã để nhắc người tu hành trừ tham ái thân này.
Đây là trừ chấp thân. Bởi ái thân tức ái ngã, đó là nguồn luân hồi trong sanh tử. Vì ái thân, mến luyến nó quá, nên mất thân này tìm thân khác, nghĩa là luôn luôn tìm cái để tựa. Chính vì bám chặt vào nó, nên khi mất nó, liền khổ! Ai đụng tới nó liền sân, liền tự ái. Tự ái là gì ? Tức là đụng tới cái Ta này chứ gì ? Nếu không có ta, cái gì tự ái? Do đó xét kỹ, người nhiều tự ái, tức là nặng về cái ta, phải không? Thấy thấu chỗ này, chúng ta mới thấy cái lầm sâu dày của mình. Người tu hành không giải thoát được, không hết khổ, cũng vì còn bám vào chỗ này. Buông chỗ này liền cảm nhận niềm vui giải thoát ngay hiện tại đây thôi. Chuyện Ngài Phá Táo Đọa: Sư không biết tên gì, nhân một câu chuyện mà thành tên. Nhân vùng gần Tung Sơn có ngôi miếu thờ ông Táo rất linh, người đến giết vật cúng tế thường xuyên. Một hôm, có vị Thiền sư, sau này gọi là Phá Táo Đọa dẫn nhóm đệ tử đi vào trong miếu. Sư đến chỗ thờ ông Táo, lấy gậy gõ vào đó ba cái bảo:
- Bếp ơi! Đây là ngói gạch hợp thành, thánh từ đâu lại, linh từ đâu đến mà ngươi đòi chuộc mạng nhiều sinh vật như thế ?
Nói xong, Sư gõ mấy cái nữa thì cái bếp ấy liền ngã đổ. Sư bèn dẫn nhóm đệ tử đi ra. Thầy trò đi được một quãng đường, chợt có vị mặc đồ xanh như là quan đến lễ trước Sư, Sư hỏi:
- Ông là ai?
Vị đó thưa:
- Con là thần Táo ở ngôi miếu kia, vừa rồi con được Hòa thượng khai thị pháp vô sanh nên được giải thoát kiếp Táo, sanh về cõi trời, do đó con đến tạ ơn Hòa thượng.
Sư bảo:
- Vô sanh là tánh sẵn có của ngươi, chẳng phải nhờ ta thuyết pháp.
Vị ấy bèn lạy rồi biến mất. Vị tăng thị giả thắc mắc hỏi:
- Chúng con lâu nay theo hầu Hòa thượng nhưng chưa hề được nghe Hòa thượng giảng pháp, ông thần Táo này được nghe pháp gì mà chóng sanh lên cõi trời như vậy?
Sư bảo:
- Ta chỉ nói với y là: "Do ngói gạch hợp thành, linh từ đâu lại, thánh từ đâu đến" vậy thôi chứ không có đạo lý gì khác.
Như vậy, đâu là pháp vô sanh mà ông thần Táo ngộ nhanh thế? Bởi thần Táo không chỗ tựa nương, vọng bám vào mấy cục gạch của cái bếp trong miếu, lấy đó làm thân mình, rồi đòi người giết sinh vật cúng tế, lại càng tạo nghiệp dữ thêm, nên không đi đâu nổi. Bị mấy cục gạch đó nó cột một cách đáng thương! Chúng ta hiện tại cũng giống như vậy, cứ bám vào mấy cục thịt, mấy đốt xương, mấy sợi gân… đấy mà giết vật này, giết vật kia cúng nó, rốt cuộc nó cũng tan rã, trở về với cát bụi, còn nghiệp dữ kia tự mình phải đành mang lấy sang kiếp khác để chịu khổ, có đau đớn chăng? Lo nuôi nó, nhưng nó vẫn bỏ mình, để mình riêng chịu khổ, vậy còn chưa tỉnh hay sao? Do đó ông thần Táo kia, khi được Thiền sư đánh thức: "Cái này là do ngói gạch hợp thành thôi, cái linh tri, cái thánh sáng suốt há là vật vô tri đó sao, mà phải đòi người ta cúng tế bằng bao nhiêu mạng sống của những sinh vật đáng thương kia!" Nghe vậy, thần Táo liền tỉnh ngộ, mình là thần, tức sáng suốt, đâu phải mấy cục gạch đó, liền buông mấy cục gạch này, ngay đó tức giải thoát kiếp Táo chứ gì! Buông chỗ nương này, liền ngộ tự tánh xưa nay chưa từng sanh diệt, chưa từng thiếu vắng, đó là pháp vô sanh chớ có gì khác nữa đâu! Cho nên, nếu cứ bám chặt vào cái ngã mập ốm, mấy chục ký lô này, là đi mãi trong luân hồi, tạo nghiệp chịu khổ đời đời không dứt. Người tu giải thoát chớ có lầm lẫn!
3. Vì trừ thành kiến chấp trước.
Đây là phá chấp tâm. Nghĩa là lâu nay chúng ta sống với những cái "thấy biết" mang đậm một cái Ta chen vào trong đó; bởi vậy hễ thấy biết gì là chấp chặt vào điều thấy biết đó, không chịu buông, dù là thấy biết sai lầm cũng cố bảo vệ nó tới cùng. Vì sao vậy? Vì sợ mất cái Ta! Song chân lý vốn không có riêng tư, không có ranh giới; nhưng khi bị cái Ta chen vào, nó liền chia chẻ chân lý thành mảnh mún, biến lẽ thật thành ra có đây kia, có lẽ thật của ta, có lẽ thật của anh, tạo thành sự cách biệt nhau. Chẳng hạn, tôi thấy ngọn núi này cao, người kia thấy là thấp, bởi vì trong đầu tôi ít thấy ngọn núi nào cao hơn ngọn núi này; trái lại, trong đầu người kia đã từng thấy nhiều ngọn núi cao hơn ngọn núi này xa. Song, núi vẫn là núi, nó không tự nói là cao, không tự nói là thấp. Rõ ràng là chúng ta lấy cái ta mà đo lường tất cả người, bắt người phải thấy theo ta. Có câu chuyện ngụ ý: Một tên tướng cướp có một cái giường đặc biệt, hễ khi bắt được ai, y đem đặt lên giường đó, nếu dài hơn thì lấy dao chặt bớt, nếu ngắn hơn thì cố kéo rút cho dài ra bằng cái giường này.
Đây là ngầm chỉ, người chỉ lấy cái Ta mà đo kẻ khác theo cái khuôn của mình, bắt kẻ khác phải theo cái Ta này, chính vì vậy mà luôn làm đau khổ cho nhau; vì mỗi người đều có nghiệp riêng đâu giống ta được. Hiểu rõ bằng trí tuệ chân thật, Ta chỉ là một khái niệm tưởng tượng; thấy biết do huân tập sai khác mà thành có hiểu sai khác, thì thông cảm cho nhau để tìm về chỗ chân thật không hai, đó mới là điều quý. Trong kinh Niết-bàn có kể câu chuyện: Một ông vua muốn thử những người mù, ông sai đem con voi đặt trước sân, gọi mấy người mù rờ xem rồi tả lại cho ông nghe hình dáng con voi thế nào? Người rờ trúng tai voi bảo: Con voi giống cái quạt. Người rờ trúng chân voi bảo: Con voi giống cây cột. Người trúng bụng bảo: Con voi giống cái lu. Người rờ trúng đuôi voi bảo: Con voi giống cây chổi. Rồi họ cãi nhau mãi, ông vua chỉ cười thôi.
Như vậy, vì sao mà họ tranh cãi? Chỉ vì chỗ thấy chưa trọn vẹn, dù mỗi người có chạm đến con voi thật sự, nhưng chỉ chạm một bộ phận, một góc cạnh, nên chỗ biết cũng hạn hẹp và có sai biệt, do đó thành tranh cãi nhau. Trong khi đó, nếu là ông vua thấy toàn thể con voi rõ ràng trước mắt thì sao ? Chỉ cười thôi ! Nếu như ông vua cũng nhảy vào tranh cãi với những người mù ấy thì thế nào? Cũng mù theo luôn phải không? Bởi còn ham cãi là còn tâm hơn thua, còn mang nặng tình chấp ngã, sợ ta sai, ta kém! Trái lại, đã thấy suốt rồi, đâu còn sợ sai mà cãi? Như chuyện Hiệp Sơn và Định Sơn. Hai vị cùng đi đường bàn chuyện với nhau, Định Sơn nói:
- Trong sanh tử, không Phật tức phi sanh tử.
Hiệp Sơn nói:
- Trong sanh tử, có Phật tức chẳng mê sanh tử.
Hai người lên núi Đại Mai lễ Thiền sư Pháp Thường, Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại cho Sư nghe và hỏi:
- Chưa biết chỗ thấy của hai người, ai được gần?
Sư bảo:
- Một gần một xa.
- Ai được gần?
- Hãy đi, sáng mai trở lại!
Sáng hôm sau, Hiệp Sơn lại đến hỏi Sư. Sư bảo:
- Người gần thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng gần.
Thấy đau chưa? Bởi cứ lo tới trước hỏi ai đúng, là muốn mình hơn, sợ mình sai, cho nên không gần được đạo. Trái lại, người đạt lý rõ ràng không nghi thì nói ra tự tin chắc, lo gì phải hấp tấp đi hỏi đúng sai? Còn kẹt trong niệm đúng sai như thế, quả tang là người còn đứng ngoài cửa rồi! Đây là một kinh nghiệm cho người còn ưa tranh cãi lý luận, còn nặng về tình đúng sai, cần nghiệm kỹ !
4. Vì trừ ngã mạn, kiêu căng, cống cao, ngạo nghễ.
Bởi xét tột lý: Cái gì là ngã mạn? Cái gì kiêu căng? Kiêu căng cho ai? Cho cái cục thịt 60, 70 ký lô này chăng? Cho cái khối mập ốm, đen trắng này ư? Nếu vậy, khi chết nó nằm cứng đơ hoặc bệnh nằm liệt giường thì còn gì để kiêu căng, ngã mạn? Do đó, học đạo mà mang nặng tâm này thì làm sao học đến chỗ chân thật? Chính vì vậy, trong nhà thiền thường đánh phá, thử thách cho nó xẹp bớt, nhẹ bớt, mới dễ tiếp nhận lẽ thật. Lâm Tế ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị Hoàng Bá đánh, nếu lúc đó tự ái, nổi giận oán hờn thì có làm Tổ được chăng ?
Huệ Nam ở Hoàng Long, lúc làm thư ký từng lãnh đồ chúng, có tiếng tăm, khi đến trong pháp hội Ngài Từ Minh, vào thất thưa hỏi chỉ bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn những người bên cạnh nói:
- Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng chửi đâu phải quy củ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười bảo:
- Đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này, Sư liền đại ngộ.
Vậy mắng chửi đó là mắng chửi cái gì? Đó là đập vào cái ta hiểu biết này, cái ta kiến giải này, cho nó hết chỗ nổi phồng lên, rồi khêu nhẹ mới liền sáng tỏ!
Lục Tổ mới đến Ngũ Tổ, Ngũ Tổ hỏi:
- Ngươi là người từ xứ nào đến? Đến đây lễ ta để cầu việc gì?
Sư đáp:
- Đệ tử từ Lãnh Nam đến lễ bái Hòa thượng chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác.
Ngũ Tổ bảo:
- Ông là người Lãnh Nam, là xứ mọi rợ, làm sao kham làm Phật ?
Nếu Lục Tổ ngay đó tự ái bỏ ra về thì có làm Tổ được chăng? Hoặc chúng ta đang ngồi thiền yên lặng tâm thanh tịnh, chợt nhớ đến "hồi sáng anh ấy nói nặng ta!", thì sao? Tức liền mê ngay! Đây là một lẽ thật sáng ngời, cần thấu rõ không thể hời hợt bỏ qua !
5. Nhằm đưa người vươn lên, chuyển hóa.
Chính tinh thần vô ngã giúp chúng ta thấy rõ, chúng sanh không có cái ngã chúng sanh cố định, Phật cũng không có cái ngã Phật cố định, phiền não sanh tử cũng không có cái ngã phiền não sanh tử cố định, Bồ-đề Niết-bàn cũng không có cái ngã Bồ-đề Niết-bàn cố định. Do đó mới có chuyển hóa chúng sanh thành Phật, chuyển phiền não thành Bồ-đề; nếu chúng sanh đã cố định rồi, Phật đã cố định rồi thì còn mong gì chuyển thành Phật được! Tiệm Nguyên với Ngài Đạo Ngô đến nhà đàn-việt điếu tang, Tiệm Nguyên liền vỗ vào quan tài nói:
- Sanh ư? Tử ư?
Đạo Ngô bảo:
- Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói.
Tiệm Nguyên hỏi:
- Vì sao chẳng nói?
Đạo Ngô bảo:
- Chẳng nói, chẳng nói.
Hai thầy trò về giữa đường, Tiệm Nguyên hướng về Đạo Ngô nói:
- Thầy hãy vì con nói, nếu không nói con đánh thầy!
Đạo Ngô bảo:
- Đánh thì cứ đánh, còn nói thì không nói.
Tiệm Nguyên liền đánh.
Đạo Ngô bảo:
- Ông hãy tìm nơi khác, nếu Tri sự biết được e khó cho ông.
Tiệm Nguyên bèn bỏ đi, đến ngôi chùa nhỏ dưới núi, một hôm nghe người tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa đến đoạn: "Nên dùng thân Tỳ-kheo được độ, liền hiện thân Tỳ-kheo mà vì nói pháp …" Sư liền tỏ ngộ.
Tiệm Nguyên thắc mắc hỏi: "Sanh ư! Tử ư?", nếu thật cố định là sanh, là tử, sao Đạo Ngô không nói xác định đi? Bảo "Chẳng nói chẳng nói" là có đáp chưa? Nếu Tiệm Nguyên nhanh mắt, ngay đó liền rõ sanh tử không thể nói, ngay sanh tức vô sanh thì hay biết mấy, đâu phải nhọc nhằn đến nơi khác! Khi nghe đến phẩm Phổ Môn liền ngộ, là ngộ cái gì? Bồ-tát Quán Thế Âm có 32 ứng thân, vậy thân nào là thân thật của Bồ-tát? Thân đó hiện, thân đó mất, Ngài có thật mất chăng? Vậy có gì là cố định thật?
Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã, có đoạn Phật dạy: "Tất cả chúng sanh xưa nay thanh tịnh. Giả sử khiến cho chư Phật ở trăm ngàn muôn kiếp xướng nói: "Chúng sanh chúng sanh", mà không quyết định thật có chúng sanh có thể được ! " Cho thấy, dù Phật có nói tên "chúng sanh", nhưng không phải do nói đến tên đó mà thành chúng sanh thật. Nên nói: "Mê là chúng sanh, giác tức Phật", cả hai đều là tên, thể đó vốn không hai, không phải có một cái thể chúng sanh riêng, có một cái thể Phật riêng. Vậy nói chúng sanh nhưng đâu phải là chúng sanh mãi! Mê đâu phải mê mãi! Mê vĩnh viễn! Nếu thế thì hết tu hành, vì dù có tu cũng không đổi được. Sự thật, nếu người khéo quán chiếu trở lại nguồn tâm, mở sáng mắt trí tuệ thì hết mê. Hết mê tức là giác. Đã giác thì hết tên "chúng sanh", mà chuyển thành tên "Thánh", tên "Phật"! Đó là một con đường vươn lên, một sức mạnh để tu hành chuyển hóa: Trừ tâm niệm mặc cảm mình làm chúng sanh ngu si mãi! Mình nghiệp chướng sâu dày hết còn mong gì tu hành nữa! Đây là ý niệm nguy hiểm, khiến người thoái hóa, chôn vùi mình mãi mãi trong tội lỗi. Vì vậy, vô ngã là một diệu lý sâu xa, không dễ gì lý luận qua loa mà hiểu hết, chỉ phải thực sự sống trong đó mới tự cảm nhận không thể nghĩ bàn. Nếu chỉ hiểu vô ngã là không có ta thật, có gì dính dáng? Cho nên vô ngã, cuối cùng đưa đến vô sở đắc, sạch hết mọi chỗ được, mọi kiến giải đã có.
Thiền sư Linh Huấn ở với Ngài Quy Tông một thời gian, khi từ giã đi, Quy Tông hỏi:
- Ông đi đâu?
Sư thưa:
- Con về Lãnh Trung.
Quy Tông bảo:
- Ông ở đây nhiều năm, sửa soạn hành lý xong hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật pháp cao tột.
Sửa soạn hành lý xong, Sư đến trước Quy Tông, Quy Tông bảo:
- Lại gần đây!
Sư đến gần, Quy Tông bảo:
- Trời lạnh, đi đường hãy bảo trọng!
Sư nghe lời này, liền quên chỗ hiểu trước.
Vậy Phật pháp cao tột ở chỗ nào? Chúng ta nghe nói Phật pháp cao tột, liền tưởng là một câu gì đó khác thường, một đạo lý thật cao siêu, không ngờ chỉ một câu nói bình thường, giản dị, tâm mong muốn để hiểu liền dứt! Nên nói: "quên chỗ hiểu trước". Đây là chỗ người học thiền chân thật không thể hời hợt bỏ qua! Còn thấy ta ngộ, ta được là còn phải xét lại!
IV. CUỐI CÙNG CÓ TA HAY KHÔNG ?
Nói không ngã, sạch hết mọi chỗ chấp, chỗ bám, chỗ đắc, vậy cuối cùng thế nào? Không còn gì hết sao? Đây là chỗ nhiều người học đạo thắc mắc, nghi ngờ.
Như trước đã nói, không ngã là không cái ngã tưởng, không cái giả ngã, tức lầm cái giả cho là thật, không phải ta mà nhận bướng cho là ta, để thành tạo nghiệp chịu khổ. Song người đạt vô ngã, thì trong đó "cái gì biết rõ vô ngã" mà chỉ dạy lại cho mọi người còn mê? Nếu hoàn toàn không có cái thật, vậy gọi lầm là lầm cái gì? Không phải thật ta mà lầm cho là thật ta, mới gọi là lầm! Do đó, khi mọi ý niệm sai lầm về Ta đã sạch thì chân ngã hiện bày! Cho nên, phá là phá cái ý niệm, cái tưởng về ta, chứ không phải có cái ta thật bị phá. Nếu thấy thật có cái ta bị phá, thành ra có cái ta thứ hai để phá nó rồi! Rốt cuộc vẫn lẩn quẩn chưa rời bóng dáng cái Ta.
Có vị tăng hỏi Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn:
- Thế nào là kiếm không mũi?
Sư đáp:
- Chẳng do rèn luyện mà thành.
- Dụng của nó thế nào?
- Người gặp đều chết.
- Người chẳng gặp thì sao?
- Cũng phải rơi đầu.
- Người gặp đều chết là lẽ cố nhiên, người chẳng gặp vì sao lại rơi đầu?
- Ông chẳng thấy nói "hay sạch tất cả" sao?
- Sau khi sạch hết thì thế nào?
- Mới biết có cây kiếm này.
Thường thì kiếm phải có cán, có mũi, đây hỏi kiếm không mũi là sao? Muốn chỉ cái gì? Tức không phải hỏi cây kiếm của thế gian rồi, mà muốn chỉ kiếm vô tướng nơi mình. Kiếm đó, đâu phải do tạo tác mà thành, vì có tạo tác là thuộc sanh diệt rồi. Nên Sư đáp: "Chẳng do rèn luyện mà thành". Tuy nó không tướng, không do tạo tác thành, nhưng dụng của nó thì ghê hồn, không thể nghĩ bàn, không một bóng dáng gì còn lại với nó được. Nên "gặp, chẳng gặp" đều chết, nghĩa là dứt bặt cả hai bên đối đãi, không chỗ cho tình thức hiểu biết, phân biệt đến được. Khi sạch hết mọi tình chấp phân biệt rồi, không phải không còn gì hết, mà ngay đó liền rõ có cây kiếm này! Tức là sạch hết tình chấp phân biệt hai bên có mang cái ngã trong đó, thì chân thật hiện tiền sờ sờ ngay đó, thật tướng Bát-nhã lồ lộ rõ ràng. Nhưng vì phải vượt qua ý niệm đối đãi mới cảm nhận được, nên các Ngài không thể nói cho người còn đem tình phân biệt để hiểu! Do đó hỏi đến chỗ này, các Ngài thường im lặng, hoặc nói những câu chát tai, hoặc đánh, hoặc hét, khiến người hết tưởng tượng. Song cái này ở đâu mà khó nói như vậy? Sự thật không ở đâu cả, mà ở ngay chính mình, trong chỗ chúng ta sống hằng ngày đây thôi, chỉ tự chúng ta chẳng chịu nhận mà đành lang thang tìm kiếm!
Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư đã dạy rõ ràng: "Ở trong ánh sáng này, giơ tay múa chân như số cát sông Hằng, đến khi hỏi tới thì ai nấy thảy nói chẳng được, giống hệt người gỗ. Hoàn toàn là chính mình thọ dụng, nhân đâu chẳng biết ?"
Chính ngay chỗ chúng ta giơ tay múa chân, đi qua, đi lại hằng ngày đây, nếu không có ánh sáng kia thì cái gì khiến ra như thế? Ai chen vào đây để làm những việc đó? Không ai chen vào hết, thì chính mình thọ dụng tất cả đó, tại sao hỏi đến lại mờ mịt không biết? Giả sử là người bị tâm thần, mất sáng suốt thì không biết cũng được đi, trái lại chúng ta vẫn đang sáng suốt rõ ràng đây, sao hỏi đến lại không biết? Có đau chăng? Chính đó Phật, Tổ gọi chúng ta là mê, là tự cô phụ chính mình là chỗ này!
Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục có bài kệ tóm kết về bài Nói Rộng Sắc Thân là:
Vô vị chân nhân xích nhục đoàn
Hồng hồng bạch bạch mạc tương man.
Thùy tri vân quyện trường không tịnh
Thúy lộ thiên biên nhất dạng san.
Tạm dịch:
Vô vị chân nhân thịt đỏ au,
Hồng hồng, trắng trắng chớ lầm nhau.
Ai biết, mây tan trời trong vắt,
Ven trời sương biếc núi một màu.
Tức ngay nơi sắc thân này, ngay cái thân máu thịt đỏ au này, có con người chân thật không địa vị, ngôi thứ, ngồi sẵn trong đó. Tại sao chúng ta không sống với con người chân thật đó, mà nhận cái ta vô thường sanh diệt này để chịu khổ? Tuy nhiên, cũng chớ vội vàng hấp tấp nhận lầm cái tướng hồng hồng, trắng trắng của da thịt kia cho là "con người chân thật" thì nguy! Cái tướng trắng trắng, hồng hồng của mấy cục thịt đó không lâu cũng thúi sình, trả về cát bụi thôi. Nếu khéo tu hành quán chiếu, mây mờ vô minh tan hết, thì cả một trời tâm trong vắt vô tận, trước mắt hiện bày một thể như như, còn gì che đậy được nữa? Tướng hồng hồng, trắng trắng kia làm sao nhốt được, ngăn được thể thênh thang này?
V. TÓM KẾT
Tóm lại Ta là gì? "Ta" chỉ là một khái niệm, là cái tưởng tượng thôi, vốn không có thật thể, nên chỉ gọi là ngã tưởng. Do đó, người tu hành chân chánh mà còn mang nặng tình chấp ngã thì khó tiến đạo! Quên ngã thì không cầu tiến, vẫn tiến! Khi chúng ta hết lầm thì mắt sáng ngời, rõ ra xưa nay chưa từng thiếu vắng bao giờ, còn phải chạy tìm ở đâu?
Có vị tăng hỏi Thiền sư Duy Khoan:
- Đạo ở đâu?
Sư đáp:
- Ở ngay trước mắt.
Vị ấy hỏi thêm:
- Sao con không thấy?
Sư bảo:
- Vì ông có ngã.
Tăng hỏi lại:
- Con có ngã nên con không thấy, vậy Hòa thượng thì sao?
Sư bảo:
- Có ông, có ta rồi cũng chẳng thấy.
Tăng hỏi tiếp:
- Không con, không Hòa thượng thì sao?
Sư đáp:
- Không ông, không ta còn ai cầu thấy!
Rõ ràng đạo ngay đây thôi, chỉ quên cái tình chấp ngã này, bặt cái niệm ta người thì hiện tiền sáng rỡ chưa từng mất đi đâu! Còn muốn cầu thấy, chính là chưa thấy. Nhất là còn cố ôm cái ta này mãi, mà muốn thấy đạo, hoặc cho là mình thấy đạo, hẳn còn xa lắm!
Có kệ:
Ta có, phiền não có,
Ta không, phiền não không.
Có không hai đều dứt,
Chánh định mặc thong dong.
Người tu hành tiến hay không, hãy xem kỹ lại điểm này! Và đây kết thúc bằng đoạn nhân duyên này:
Tam Tạng Đại Nhĩ từ Thiên Trúc đến Trung Hoa, tự nói đã được tha tâm thông. Vua Đường mời Quốc sư Huệ Trung thử xem thật giả. Quốc sư hỏi Tam Tạng:
- Nghe nói ông được tha tâm thông phải chăng?
Tam Tạng thưa:
- Chẳng dám.
Quốc sư liền khởi ý đến bến đò Tây Xuyên, hỏi Tam Tạng:
- Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Tam Tạng đáp:
- Hòa thượng là thầy một nước, sao lại đến bến đò Tây Xuyên xem đò đua?
Sư lại khởi ý đến cầu Thiên Tân, hỏi Tam Tạng:
- Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng ở đâu?
Tam Tạng đáp:
- Hòa thượng là thầy một nước, sao lại đến cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn?
Sư liền hỏi Tam Tạng:
- Ông hãy nói, hiện giờ lão tăng ở đâu?
Tam Tạng lặng thinh không biết chỗ đi. Sư nạt:
- Cáo tinh! Tha tâm thông ở chỗ nào?
Tại sao hai lần trước, Tam Tạng thấy được, đáp trúng? Đến lần thứ ba, vì sao Tam Tạng mờ mịt không biết? Ngay lúc đó Quốc sư ở đâu? Có phải đang đối diện hiện tiền, mà Tam Tạng lại lầm qua, đành bị quở! Bởi Tam Tạng chỉ lo đuổi theo cái bóng của Quốc sư, đến khi Quốc sư đối trước lại mê! Mọi người cần thấy chỗ Tam Tạng không thể thấy Quốc sư đó, liền rõ "TA LÀ GÌ?".
- T.T Thích Thông Phương -