headertvtc new


   Hôm nay Thứ hai, 23/12/2024 - Ngày 23 Tháng 11 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

khanhtueSuOng2024

VUA TRẦN NHÂN TÔNG VỚI THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ

 I - ÔNG VUA CÓ TÂM PHẬT

Nghiên cứu đạo Phật Việt Nam chúng ta thấy rất rõ, thời Trần nổi bật những ông vua Phật tử đáng kính. Vua Trần Thái Tông, nhìn với cặp mắt nhà Thiền có thể nói Ngài là ông vua Thiền sư. Tuy ngồi trên ngai vàng nhưng Ngài hiểu thiền rất sâu, tâm thiền rất sáng và sống thiền rất đắc lực. Qua tác phẩm Khóa Hư Lục và giây phút rời bỏ cuộc đời của Ngài đã nêu rõ điều đó.

Vua Trần Thánh Tông cũng thế, Thánh Đăng Lục ghi rõ cho thấy, sức sống thiền của Ngài thật là vững vàng, đến mé bờ sinh tử vẫn có sức tự chủ và sáng suốt mà một vị xuất gia bình thường khó theo kịp.

Riêng vua Trần Nhân Tông, quả là một ông vua Phật của Việt Nam đúng với sự tôn xưng từ trước tới nay. Ngài có duyên sâu với Phật từ thuở nhỏ.

Sinh ra, thân sắc vàng như sắc Phật. Lớn lên, năm 16 tuổi, được vua cha lập làm Hoàng thái tử, Ngài hai lần cố xin nhường lại cho em là Đức Việp, nhưng vua Thánh Tông không cho, vì thấy Ngài có khả năng gánh vác việc lớn. Trong khi đó lịch sử để lại biết bao trang sử đau lòng, chỉ vì ngôi vị này mà cốt nhục tương tàn. Hạt giống Phật đã ngầm chứa sẵn trong Ngài mà biểu lộ ra như thế.

Rồi một hôm, Ngài lại vượt thành tìm về Yên Tử tu hành. Điều này đâu có ai dạy Ngài. Nếu không phải chủng tử Phật ngầm chứa trong Ngài nó thúc đẩy, thì cái gì khiến làm như thế? Với cái nhìn của nhà Phật, đều có nhân duyên chớ không phải ngẫu nhiên.Việc này lại trùng hợp với Đức Phật, khi làm Thái Tử Tất Đạt Đa cũng vượt thành xuất gia tìm đạo. Song với vua Trần Nhân Tông, lúc ấy vua cha cho người tìm gọi về, Ngài đành phải về. Thiền sư Chân Nguyên đã thuật lại trong Thiền Tông Bản Hạnh:

                Đêm ấy thái tử thoát ra du hành
                Tìm về Yên Tử một mình,
                Đến Đông Cứu sơn, thiên minh rạng ngày.
                Giả tướng lệ người thế hay,
                Vào nằm trong tháp một giây đỗ dùng.
                Tăng tự thấy tướng lạ lùng,
                Làm bữa cơm thết cúng dàng cho ăn.
                Hoàng Hậu liền tâu Minh Quân,
                Rao bảo thiên hạ quần thần đông tây.
                Tìm đòi Thái tử chớ chầy,
                Bắt em thay trị liền tay tức thì..
                Thuở ấy Thái tử lại về,
                Vua cha nhượng vì cho trị vạn dân

Rồi tuy ở địa vị cao sang, quyền quý mà ăn chay, sống đạm bạc không thụ hưởng đến nỗi thân ốm gầy, vua cha phải gọi lại than: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác sự nghiệp của Tổ tiên ?”
Một duyên lành với Ngài nữa là, được vua cha cho theo học với Thượng Sĩ Tuệ Trung, một bậc Thiền Sư Cư Sĩ phi thường. Nhân đây Ngài hiểu sâu về thiền. Trong lời tựa sách Tuệ Trung Ngữ Lục, Ngài có thuật lại đoạn hỏi đáp với Thượng Sĩ, Ngài hỏi: “Thế nào là tông chỉ của việc bổn phận?”. Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình đó là việc bổn phận, chẳng từ nơi nào khác mà được”.

Ngài nhận sâu ý chỉ này. Có thể nói, một câu đáp này tóm thâu trọn cốt tủy của Thiền và gồm suốt giáo lý một đời của Đức Phật. Chư Phật, chư Tổ nói pháp đều vì con người, người nghe pháp phải vượt qua ngôn ngữ văn tự chết mà soi sáng lại nơi mình, chuyển những lời kinh khô khan đó vào cuộc sống hiện thực đây, đó mới là Phật pháp sống. Bởi vậy, Thiền tông chủ trương “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”, khiến người không chết chìm trong đám rừng chữ nghĩa vô tri ấy. Vua Trần Nhân Tông đã được Thượng sĩ khơi đúng mạch nguồn Phật pháp đó, và Ngài tiếp nhận đúng lúc, lấy đó làm cửa mở vào Thiền.

II. CON ĐƯỜNG XUẤT THẾ:

Sau hai lần lãnh đạo dân quân Đại Việt đánh thắng giặc Mông, năm 1293 Ngài nhường ngôi cho Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng và chuẩn bị con đường xuất thế cho mình. Bước đầu Ngài ở Vũ Lâm như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại: “Bấy giờ Thượng hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá. Cửa núi đá hẹp, Thượng hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, Thái hậu Tuyên Từ ở đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng mũi thuyền. Chỉ cho một phu chèo thuyền mà thôi. Kịp đến khi Thượng hoàng xuất gia, khi Thượng hoàng sắp ra đi, bèn mời Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức, cung Thánh Từ ban cho ngồi ăn đồ biển, làm thơ rằng:

                    Chân rùa bóc đỏ mọng,
                    Yên ngựa nướng vàng thơm.
                    Sơn Tăng giữ giới sạch,
                    Cùng ngồi chẳng cùng ăn.
                                ***
                    ( Hồng thấp bác quy cước,
                      Hoàng hương chá mã yên.
                      Sơn Tăng trì tịnh giới,
                      Đồng tọa bất đồng san ).

                                         ( Trích Toàn Tập Trần Nhân Tông )

Lúc này vua đã ăn chay, giữ tịnh giới, chuẩn bị cho bước xuất gia sắp tới.

Đến tháng 7 năm 1299, Ngài cho xây dựng một am thiền trên núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am, và theo Thánh Đăng Lục thì qua tháng 10 năm ấy vua mới thực sự lên núi Yên Tử xuất gia tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Thiền Tông Bản Hạnh ghi: 

                    “Kỷ Hợi Nhân Tông ra ngoài,
                     Quyết lên Yên Tử tu chùa Hoa Yên.
                    Quần thần nghĩa sĩ dưới trên,
                    Đưa vua tu đạo thoát duyên phàm trần.
                    Đến chùa Long Động mới phân,
                    Tất trừ phiền não ái ân phát nguyền.
                    Nhân Tông khắn khắn lòng tin,
                   Thành tâm trai giới bước lên chiền già.
                   Cung tần thể nữ trở ra,
                   Người về phối thất, kẻ ra Kinh kỳ.
                   Mặc ai ra chợ về quê,
                   Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng”.

Tức là lúc này quần thần, quyến thuộc tiễn đưa Nhân Tông vào núi Yên Tử xuất gia tu hành, đến chùa Long Động mới chia tay. Với cung nữ, Ngài cho tự do về quê lập gia đình hoặc làm gì tùy ý, dứt khoát buông xả hết không coi là của mình. Đây mới thật sự cắt đứt ân ái, xuất gia hành đạo. Do đó có câu chuyện suối Giải Oan và làng Nàng làng Mụ.

                    Rày trẫm đầu Phật xuất gia,
                    Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi.
                    Chị hầu, bà mụ, cung phi,
                    Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây.
                    Lòng vua thấy vậy thương thay,
                    Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền.

Cho nên tích để lưu truyền :

                    "Làng Nàng, Làng Mụ, phúc duyên đã chầy”.

                                                    (Thiền Tông Bản Hạnh)

III. TU HÀNH Ở YÊN TỬ:

 Vào Yên Tử Ngài quyết tâm sống đời xuất gia giải thoát, từ bỏ những hưởng thụ của thế gian, thực hành 12 hạnh Đầu-đà, tức sống khổ hạnh, đạm bạc, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu-đà. Tên Trúc Lâm này cũng là hiệu của Quốc Sư Trúc Lâm-Viên Chứng, một bậc Thiền Tổ của Yên Tử đã khai thị cho vua Trần Thái Tông “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”. (Lời tựa Thiền Tông Chỉ Nam).

Một ông vua anh minh, tiếng tăm vang dội, lại sống cuộc đời đạm bạc đến mức tối đa nơi rừng núi, thì phải biết lòng mộ đạo của Ngài rất chân thành. Trong bài Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, một bản văn bằng chữ Nôm, Ngài đã bộc lộ: 

                         ông danh chẳng trọng,
                        Phú quý chẳng màng.
                        Tần Hán xưa kia,
                        Xem đà nhàn hạ.
                        Yên bề phận khó,
                        Kiếm chốn dưỡng thân.
                        Khuất tịch non cao,
                        Náu mình sơn dã
                        Vượn mừng hủ hỷ
                        Làm bạn cùng ta.
                        Vắng vẻ ngàn kia
                        Thân lòng hỷ xả.
Rồi
                        Dốc chí tu hành,
                        Giấy sồi vó vá

                        Thân này chẳng quản,
                        Bữa đói, bữa no.

Ngài sẵn sàng từ bỏ công danh phú quý, sống ẩn mình nơi vắng vẻ, buông bỏ tình chấp nơi thân tâm, ăn mặc đơn sơ, đói no chẳng quản, tức quên NGÃ mà hành đạo. Do đó mới có được cái vui đến chỗ thành đạo, chứng ngộ thật sự, nếm được pháp vị rõ ràng, không phải chỉ tu trên hình thức, hoặc kiến giải suông trên chữ nghĩa, lý luận. Quả là một HÀNH GIẢ đúng nghĩa!

                        Niềm lòng vằng vặc
                        Giác tính quang quang
                        Chẳng còn bỉ thử
                        Tranh nhân chấp ngã.

IV. PHÁT MINH TRÍ TUỆ VÔ SƯ:

Chính bằng công phu chân thật hành Thiền, ngài đã thể nhập chân Thiền, mở sáng “trí tuệ vô sư”, thế gian khó bì kịp. Trong bài Xuân Vãn, Ngài đã bày tỏ:
                    Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
                    Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
                    Như kim khám phá Đông hoàng diện,
                    Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
                                         ***
                    Thuở bé đâu từng rõ sắc không,
                    Xuân về rộn rã nức trong lòng.
                    Chúa xuân nay bị ta khám phá,
                    Ngồi lặng nhìn xem rụng cánh hồng.

Lúc chưa hiểu đạo, còn bị ngoại cảnh chi phối, nên mỗi độ xuân về lòng Ngài cũng bị động theo cảnh xuân, không làm chủ được. Nhưng bây giờ, Ngài đã nhận ra Chúa xuân tức là ông chủ chân thật muôn đời, hay nói theo nhà Thiền là “Bộ mặt thật xưa nay” của chính mình, là con người bất sinh bất diệt từ vô thủy. Giờ đây Ngài có thể giải đáp chính xác cho câu hỏi: “Cái gì là ta?”, không còn nghi ngờ, cuộc sống bây giờ mới thật sự có chủ. Điều này chứng tỏ Ngài xuất gia là thực tu, thực ngộ, xứng đáng là bậc Thiên Nhân Sư, thầy của trời người.

Còn tiếp....

[ Quay lại ]