MỘT VÀI QUAN NIỆM CỦA PHẬT TỬ
- Chi tiết
- Được đăng ngày Chủ Nhật, 11 Tháng chín 2011 12:59
Đã là Phật tử, chúng ta phải có những tư tưởng, những hành động xứng đáng là Phật tử. Nhất là phần tư tưởng, người có những nhận xét sai lầm, những quan niệm lệch lạc dễ khiến đời họ đắm chìm trong khổ đau đen tối. Vì vậy, chúng ta phải thận trọng khi đặt một quan niệm. Hay đúng hơn, chúng ta phải luôn luôn dùng lý trí kiểm soát tư tưởng của chúng ta. Tình cảm lúc nào cũng chực phủ che lý trí, chúng ta phải chiến thắng, khắc phục được nó. Có thế, chúng ta mới mong đạt được quan niệm chân chánh. Cho nên, điều kiện trước nhất chúng ta phải tự khắc phục mình.
1. KHẮC PHỤC MÌNH
Phật giáo là nền giáo lý nội quan, luôn luôn hướng về chinh phục nội tâm. Thắng người, nhiếp phục ngoại cảnh mà quên mình, ấy là làm việc ngọn ngành. Điều căn bản là trước mình phải biết mình, nhiếp phục mình, nhiên hậu chinh phục mình và ngoại cảnh. Nói khắc phục mình tức là việc làm hằng ngày của Phật tử, vì có một Phật tử nào có thể lãng quên sự phản quán chinh phục nội tâm ? Tuy nhiên trong khi khắc phục mình, chúng ta phải nhắm vào những điều căn bản cần kíp. Điều cần kíp nhất, chúng ta phải đuổi ba tánh: tham lam, nóng nảy và dụ dự ra khỏi con người chúng ta. Đồng thời, chúng ta phải gầy dựng cho mình đủ ba tánh: không tham lam, nhẫn nại và dứt khoát.
Trong thời pháp nhược ma cường này, Phật tử chúng ta khó tránh khỏi những sự dọa nạt, khiêu khích, dỗ dành. Nếu trong người chúng ta còn mang tánh nghi ngờ dụ dự, khi bị ma vương dọa nạt làm gì không thối bước trên con đường đạo đức. Nếu Phật tử mà nóng nảy bồng bột thì không sao khỏi bị chúng ma lừa gạt bằng những cử chỉ khiêu khích, rồi phải dẫm chân vào cạm bẩy của chúng. Nếu Phật tử mà lòng yếu mềm vì danh lợi, tài sắc thì không sao khỏi bị chúng dỗ dành, rồi phải bị cuốn lôi vào hố trụy lạc.
Vì thế, Phật tử chúng ta quyết định phải có đủ ba đức tánh cần thiết: không tham, nhẫn nại, dứt khoát. Dù sấm sét trước mắt, dù thấy mọi hành động khiêu khích, dù đem danh lợi, tài sắc dỗ dành, ta vẫn thản nhiên không màng, chẳng động. Đêm đức Phật thành đạo đã nêu bày rất đầy đủ ý nghĩa này:
Đêm ấy, trước tiên bọn quỉ hung bạo đến hăm he dọa dẫm, chúng dùng tà thuật làm chuyển động cả trời đất, những tiếng hú rợn người nổi lên từng chập, đức Thích Ca vẫn an nhiên bất động. Kế đến bọn quỉ ngạo mạn lại khiêu khích, châm biếm với vẻ mặt vênh váo khó thương, Ngài vẫn lặng lẽ như không. Sau cùng, bọn Ma-vương đến dùng mọi hình thức quyến rủ, nào là hứa hẹn những ngai vàng của báu, nào hiến dâng mỹ nữ tuyệt vời, Ngài cũng vẫn thản nhiên không xao động.
Đức Phật thắng phục được bọn Ma-vương một cách dễ dàng, vì Ngài đã khắc phục được nội tâm, mọi sắc trần không còn làm quấy động được tâm hồn Ngài nữa. Chúng ta là những đứa con chân thành hướng theo những bước đi của Ngài, dĩ nhiên chúng ta phải trung thực noi theo, đừng sái lối. Chúng ta phải cương quyết tận dụng hết khả năng để khắc phục mình. “Thắng một ngàn quân không bằng tự thắng mình, thắng mình mới là một chiến công oanh liệt”. (Kinh Pháp Cú)
2. XEM NGƯỜI HẠI TA LÀ BẠN TA
“Trước con mắt đạo đức không có kẻ thù, cũng như trước ánh đèn pha không có bóng tối”. Phật hằng dạy Phật tử: “Dù thân thuộc mình bị người giết hại cũng không có tâm niệm trả thù, đem oán hận trả thù oán hận là điều không hợp chánh pháp”. Đã không có tâm niệm trả thù thì làm gì thấy có kẻ thù.
Chẳng những Phật tử không thấy có kẻ thù, mà nếu ai tự đặt họ là kẻ thù của chúng ta, chúng ta vẫn coi họ là bạn. Bởi vì, nếu xác nhận họ là thù, đã nói lên ta là người phi đạo đức. Có thù là có ý muốn hại nhau, có ý hại người là kẻ ác, không phải là người thiện. Phật giáo dạy chúng ta lấy đạo đức làm cứu cánh, dù việc làm có lợi cho Đạo, cho đoàn thể mà thương tổn đạo đức, nhất định không làm. Trong Kinh Ưu-bà-tắc Phật dạy: “Bồ-tát có khi vì lợi ích chúng sanh mà phạm giới, nhưng khi phạm giới Bồ-tát tự nhận mình làm tội, không phải chánh pháp dạy như thế”. Làm tổn thương người mà lợi cho Đạo, nhất định không phải Phật giáo. Vì thế, Phật tử không bao giờ có ý nghĩ đến kẻ thù, luôn luôn xem mọi người là bạn. Mặc dù người ấy đã nhiều phen làm ta điêu đứng, nhưng với tinh thần Phật tử chúng ta vẫn thấy họ là bạn.
Đức Phật thuật lại cho chúng ta biết, Đề-bà-đạt-đa đã nhiều đời hại Ngài. Nhưng, đến sau cùng Ngài bảo: “Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của ta”. Nhẫn nhục tiên nhân đâu không nhờ vua Cát-lợi cắt tai, xẻo mũi mà thành tựu pháp Sanh-nhẫn. Thái tử Tu-đại-noa đâu không nhờ người Bà-la-môn xin con mà thành tựu pháp bố thí Ba-la-mật. Người tu hành tiến được nhờ hai phương tiện: thuận duyên, nghịch cảnh. Thuận duyên là sự khuyến khích, giúp đỡ theo nhu cầu của chúng ta. Nhưng nếu toàn thuận duyên không, trên đường đạo tiến rất chậm chạp, phải nhờ nghịch duyên thúc đẩy sự tu tiến mới nhanh. Chúng ta đặt quan niệm chân chánh như vậy, mọi trở ngại đối với chúng ta không còn trở ngại nữa, là trợ duyên tốt cho ta tiến đạo.
Dù kẻ ác đến thế nào cũng còn đôi chút lương tri, chúng ta tin tưởng như thế, cố gắng tìm cách cảnh tỉnh họ. Nếu họ thay đổi được tâm niệm xấu ác, thật là một điều may mắn biết mấy. Bằng họ không thay đổi, chúng ta vẫn xem họ là ân nhân của chúng ta. Vì họ đã chịu hy sinh để đưa chúng ta lên nấc thang chót vót của đạo đức.
3. SỐNG THỰC THEO GIÁO LÝ PHẬT DẠY
Giá trị chân thật của đạo Phật không phải ở lý thuyết, mà tại thực hành. Phật giáo rất cao, nếu chúng ta không thực hành đúng theo thì cái cao ấy cũng vô ích. Thời đại này đa số quần chúng chạy đua theo tranh luận, miễn ai nhanh miệng thì thắng, một số đông Phật tử đang sa vào đường này. Chúng ta hãy trở lại nếp sống chân thực Phật giáo “ngôn hạnh tương ứng”; lời nói việc làm phải phù hợp nhau, đừng bao giờ “nói một đàng làm một ngõ”. So sánh từ bi, bác ái cao thấp làm gì, khi đồng bào ta đang thổn thức lo âu, đang thiếu nhà ở cơm ăn, đang sống nương tạm bên lề đường, xó chợ. Chúng ta phải làm sống dậy đức Từ-bi để mọi người cùng được an vui, có hơn cùng tranh cải nhau chăng ? Chúng ta càng chạy theo lý thuyết càng gieo nghi ngờ cho nhiều người, khiến họ mất lòng tin vào khả năng cứu khổ của Phật giáo.
Chính đức Phật không bằng lòng những lý luận vu vơ, Ngài dạy phải nhìn thẳng vào thực tế, bài kinh Tiển Dụ trong kinh Trung A-hàm đã nói rõ điều này. Kinh Phật đã từng thí dụ người nghiêng về lý thuyết không chịu thực hành cũng như kẻ đếm của báu cho người, tuy miệng đếm cả ngày, rốt cuộc nơi mình túi không bụng trống. Người Phật tử tại gia dù có lý thuyết hay thế mấy, nếu nhìn vào cách cư xử trong gia đình, cách đối đãi với hàng xóm không ra gì thì lý thuyết ấy cũng vô nghĩa. Một vị tu sĩ dù nói đạo lý cao đến đâu, mà nhìn hành động cử chỉ lố lăng thì người ta coi như anh sơn đông chẳng khác. Phật tử chúng ta không phải con người quảng cáo, cần sống đúng lời Phật dạy, hành đúng danh nghĩa của mình mang.
Tuy nhiên, lý thuyết hướng dẫn thực hành. Khi miệng ta nói từ bi, hành động ta phải không làm thương tổn người, mà thường giúp người được an vui. Khi ta khuyên người tập nhẫn nhục, nếu bị người đánh chửi, ít ra ta cũng đừng sân. Khi ta đề xướng đức hỷ xả, nếu có người xúc phạm đến ta, dù việc khó tha thứ thế mấy, ta cũng phải bỏ qua. Có như vậy lý thuyết ta nói mới có giá trị.
Những quan niệm thô sơ trên đây, thiết tưởng rất cần yếu đối với người Phật tử chân chánh. Chúng ta được thừa hưởng một gia bảo khổng lồ của đứa Phật Như Lai thì chúng ta phải cố gắng bảo vệ nó bằng cách giữ đúng giá trị, qua hành động, ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta không phải là người học Phật, mà là người tu Phật. Giáo lý Phật dạy là chiếc bè đưa ta qua biển khổ. Khi cần qua biển, chúng ta phải nương chiếc bè ấy, nhưng khi đến bờ là phải ly khai chiếc bè. Nếu chúng ta cứ bận bịu với chiếc bè thì không sao đến bờ kia an ổn. Đem giáo lý áp dụng vào sự sống hằng ngày của chúng ta, lấy nó làm nhựa sống, làm kim chỉ nam để cuộc đời chúng ta khỏi lạc hướng.