THIỀN SƯ LINH HỰU
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ ba, 13 Tháng một 2009 09:33
- Viết bởi nguyen
Qui Sơn - (771 - 853)
Sư họ Triệu, quê ở Trường Khê, Phước Châu. Năm mười lăm tuổi, Sư từ thân xuất gia theo Luật sư Pháp Thường ở chùa Kiến Thiện tại bản quận thế phát. Sau, Sư đến chùa Long Hưng ở Hàng Châu thọ giới. Sư học kinh, luật Ðại thừa, Tiểu thừa rất uyên thâm.
Năm hai mươi ba tuổi, Sư đến Giang Tây tham học với Bá Trượng Hoài Hải. Bá Trượng vừa thấy Sư liền nhận cho nhập chúng. Trong chúng, Sư là người được cử đứng hàng đầu.
Một hôm, Sư đứng hầu Bá Trượng. Bá Trượng hỏi:- Ai?
Sư thưa:- Con. Linh Hựu!
Bá Trượng bảo:- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?
Sư vạch ra, thưa:- Không lửa.
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:
- Ngươi bảo không, cái này là cái gì?
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.
Bá Trượng bảo:
- Ðây là con đường rẽ tạm thời. Kinh nói: "Muốn thấy Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên, thời tiết đã đến như mê chợt ngộ, như quên được nhớ, mới tỉnh vật của mình không từ bên ngoài được." Cho nên Tổ sư bảo: "Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp." Chỉ là không tâm hư vọng phàm thánh v.v..., xưa nay tâm pháp nguyên tự đầy đủ. Nay ngươi đã vậy, tự khéo gìn giữ.
*
Sư theo Bá Trượng làm việc trong núi, Bá Trượng hỏi:
- Ðem được lửa đến chăng?
- Ðem được.
- Ở chỗ nào?
Sư cầm một cành cây thổi vài cái, đem trao cho Bá Trượng.
Bá Trượng bảo:- Như trùng đục cây.
*
Tư Mã Ðầu-đà [là một Thiền sư thông cả địa lý và tướng số.] từ Hồ Nam đến yết kiến Bá Trượng, thưa:
- Qui Sơn là thắng cảnh nên lập đại đạo tràng kết tập bạn pháp.
Bá Trượng hỏi:- Lão tăng muốn đến Qui Sơn nên chăng?
- Qui Sơn kỳ tuyệt có thể họp một ngàn năm trăm chúng, nhưng chẳng phải chỗ Hòa thượng ở.
- Sao vậy?
- Hòa thượng là người xương, núi kia là núi thịt, dù có ở, đồ đệ chẳng đầy một ngàn.
- Trong chúng ta có người ở được chăng?
- Ðợi xem qua mới biết.
Bá Trượng sai thị giả gọi đệ nhất tọa đến, tức Thiền sư Hoa Lâm, hỏi:
- Người này thế nào?
Ðầu-đà bảo Hoa Lâm tằng hắng một tiếng, đi vài bước, thưa:
- Người này không được.
Bá Trượng sai thị giả gọi Ðiển tọa đến, tức Sư Linh Hựu.
Ðầu-đà thưa: - Ðây chính là chủ Qui Sơn.
Tối lại, Bá Trượng gọi Sư vào thất dặn dò:
- Ta hóa duyên tại đây, ngươi sẽ ở thắng cảnh Qui Sơn để nối tiếp tông môn của ta và rộng độ kẻ hậu học.
*
Hoa Lâm nghe tin này đến thưa:
- Con là thượng thủ, tại sao Linh Hựu được trụ trì?
Bá Trượng bảo:
- Nếu ai hay ngay trong chúng này nói được một câu xuất cách, sẽ cho trụ trì.
Bá Trượng liền chỉ tịnh bình hỏi:
- Chẳng được kêu là tịnh bình, ngươi kêu là gì?
Hoa Lâm thưa:- Không thể kêu là cây lủng vậy.
Bá Trượng lại hỏi Sư.
Sư đạp nhào tịnh bình rồi đi ra.
Bá Trượng cười bảo:- Ðệ nhất tọa thối lui núi này.
Bá Trượng bèn sai Sư đến Qui Sơn.
*
Non Qui cao vót không có bóng người lai vãng, là hang ổ của cọp sói. Sư đến đây cất một am tranh, hằng ngày lượm trái lật, trái dẻ làm thức ăn nuôi sống.
Ðã bảy năm qua, một hôm Sư tự nghĩ: Ðạo cốt tiếp vật lợi sanh, ở một mình chẳng phải. Sư bèn đi lần xuống núi, thấy cọp sói, Sư bảo: "Nếu ta có duyên với núi này, các ngươi nên đi tránh chỗ khác. Nếu ta không có duyên ở đây thì các ngươi cứ ăn thịt ta đi." Sư nói xong, các loài thú dữ đều đi tứ tán, Sư trở về am yên ở như trước.
Không bao lâu, dân cư dưới chân núi từ từ hay biết, họ rủ nhau kéo lên núi cất một ngôi chùa cho Sư. Sau này, Liên soái Lý Cảnh Nhượng tâu vua xin ban hiệu chùa, vua ban hiệu là Ðồng Khánh. Kế đến, có Thượng tọa Ðại An và một số chúng từ Bá Trượng đến phụ tá Sư. Ðại An nói: "Tôi sẽ làm điển tọa cho Hòa thượng." Số chúng lần lần lên đến cả ngàn. Tướng quốc Bùi Hưu cũng thường tới lui thưa hỏi chỗ huyền ảo.
*
Sư thượng đường dạy chúng:
- Phàm tâm của người học đạo phải ngay thẳng chân thật không dối gạt, không tâm hạnh sau lưng trước mặt, lừa phỉnh, trong tất cả giờ thấy nghe bình thường không có chiều uốn, cũng chẳng phải nhắm mắt bịt tai, chỉ lòng chẳng chạy theo vật là được. Từ trước chư thánh chỉ nói: bên nhơ bợn là lỗi lầm. Nếu không như thế, lòng nhiều nghĩ ác là việc tình kiến tưởng tập. Ví như nước mùa thu lóng đứng trong trẻo lặng lẽ không động không ngại, gọi người này là Ðạo nhân, cũng gọi là người vô sự.
Khi ấy, có vị Tăng hỏi:- Người được đốn ngộ có tu chăng?
Sư bảo:
- Nếu người khi thật ngộ được gốc thì họ tự biết, tu cùng không tu là lời nói hai đầu. Như nay có người sơ tâm tuy từ duyên được một niệm đốn ngộ chân lý nơi mình, nhưng vẫn còn tập khí (thói quen) nhiều kiếp từ vô thủy chưa có thể chóng sạch, nên dạy hắn trừ sạch dòng thức tạo nghiệp hiện tại, tức là tu vậy. Không nói có một pháp riêng dạy hắn tu hành thú hướng. Từ nghe nhập được lý, nghe và lý sâu mầu, tâm tự tròn sáng không ở chỗ mê lầm, hiện thời dù có trăm ngàn diệu nghĩa thăng trầm, hắn vẫn được ngồi yên mặc áo, tự biết tạo sinh kế. Nói tóm lại, "chỗ lý chân thật không nhận một mảy bụi, trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp" (thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp). Nếu được như vậy, là một mình cầm đao thẳng vào, lòng phàm thánh sạch, hiện bày chân thường, lý sự không hai, tức Phật như như.
*
Thiền sư Huệ Tịch (Ngưỡng Sơn) hỏi:
- Trăm ngàn muôn cảnh đồng thời đến, phải làm sao?
Sư đáp:
- Xanh chẳng phải là vàng, dài chẳng phải là ngắn, các pháp mỗi pháp ở địa vị của nó, chẳng can hệ đến việc của ta.
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ đến?
Sư chỉ lồng đèn bảo:- Lồng đèn rất tốt.
- Ðâu chỉ cái ấy là phải sao?
- Cái ấy là cái gì?
- Lồng đèn rất tốt.
- Hẳn là chẳng thấy.
*
Sư cùng chúng đi hái trà. Sư bảo Huệ Tịch:
- Trọn ngày hái trà chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con, hãy hiện bản hình cho ta thấy coi.
Huệ Tịch liền đập cây trà.
Sư bảo:- Con chỉ được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của nó.
Huệ Tịch thưa:- Chưa biết Hòa thượng thế nào?
Sư im lặng.
- Hòa thượng chỉ được cái thể của nó, không được cái dụng của nó.
- Cho con hai chục gậy.
*
Sư ngồi, Huệ Tịch đi vào, Sư bảo:
- Tịch con! hãy nói mau chớ vào ấm giới.
Huệ Tịch thưa:- Huệ Tịch tin cũng chẳng lập.
- Con tin rồi chẳng lập hay chẳng tin chẳng lập?
- Chỉ là Huệ Tịch lại tin cái gì?
- Nếu thế ấy chỉ là định tánh Thanh văn.
- Huệ Tịch Phật cũng chẳng lập.
*
Sư ngủ vừa thức giấc. Huệ Tịch đến hỏi thăm. Sư liền xây mặt vào vách. Huệ Tịch thưa:
- Hòa thượng đâu được như vậy.
Sư trỗi dậy bảo:
- Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, con thử vì ta đem lại xem.
Huệ Tịch lấy thau múc một thau nước đem lại cho Sư rửa mặt. Sư rửa mặt xong, giây lát Trí Nhàn (Hương Nghiêm) đến hỏi thăm, Sư bảo:
- Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, Huệ Tịch vì ta đem lại xem xong, ngươi lại đem cho ta xem.
Trí Nhàn liền đi rót một chung trà bưng đến.
Sư bảo:- Hai con thấy hiểu còn hơn Xá-lợi-phất.
*
Sư hỏi Vân Nham (Ðàm Thạnh):
- Nghe huynh ở Dược Sơn lâu lắm phải chăng?
- Phải.
- Tướng Dược Sơn đại nhân thế nào?
- Sau khi Niết-bàn mới có.
- Sau khi Niết-bàn mới có thế nào?
- Nước rưới chẳng dính.
Vân Nham hỏi lại Sư:- Bá Trượng đại nhân tướng thế nào?
- Chững chạc vòi vọi, sáng suốt rực rỡ, trước tiếng chẳng phải tiếng, sau sắc chẳng phải sắc, con muỗi đậu trên trâu sắt, không có chỗ huynh cắm mỏ.
*
Thấy Trí Nhàn, Huệ Tịch làm bánh, Sư bảo:
- Bá Trượng Tiên sư đương thời thân được đạo lý này.
Huệ Tịch, Trí Nhàn nhìn nhau nói:
- Người nào đáp được lời này?
Sư bảo:- Có một người đáp được.
Huệ Tịch thưa:- Người nào?
Sư chỉ con trâu bảo:- Nói! nói!
Huệ Tịch chạy lấy một bó cỏ đem lại. Trí Nhàn lấy thùng múc một thùng nước đem lại để trước con trâu. Con trâu đang ăn, Sư bảo:
- Cho gì? cho gì? Chẳng cho gì? chẳng cho gì?
Huệ Tịch, Trí Nhàn đồng lễ Sư. Sư bảo:
- Hoặc khi sáng, hoặc khi tối.
*
Một hôm, Sư thúc chúng trình ngữ, bảo:
- Ngoài thanh sắc cho ta cùng thấy.
Thượng tọa Giám Huyền trình ngữ:
- Chẳng từ ra đây, người ấy không mắt.
Sư chẳng nhận.
Huệ Tịch ba phen trình ngữ:
Lần đầu: - Thấy lấy, chẳng thấy lấy.
Sư bảo:- Nhỏ như chót lông, lạnh tợ sương tuyết.
Lần thứ hai: - Ngoài thanh sắc, ai cầu thấy nhau?
Sư bảo:- Chỉ kẹt Thanh văn, bên ngoài giường hẹp.
Lần thứ ba: - Như hai gương chiếu nhau, ở trong không hình tượng.
Sư bảo:
- Ngữ này chánh, ta phải ngươi chẳng phải, sớm lập hình tượng rồi vậy.
Huệ Tịch hỏi lại Sư:
- Con tinh thần tối tăm, đối đáp vụng về, chẳng biết Hòa thượng hồi còn ở với Sư ông Bá Trượng trình ngữ thế nào?
Sư bảo:
- Ta hồi ở với Tiên sư Bá Trượng trình ngữ như vầy: "Như trăm ngàn gương sáng soi sáng hình bóng, chiếu nhau cõi cõi bụi bụi mỗi mỗi chẳng lầm lẫn."
Huệ Tịch lễ bái.
*
Sư thượng đường bảo chúng:
- Sau khi Lão tăng trăm tuổi đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ "Qui Sơn Tăng Linh Hựu". Khi ấy gọi là Qui Sơn Tăng hay gọi là con trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Qui Sơn Tăng? Gọi thế nào mới đúng?
Sư truyền bá Thiền giáo hơn bốn mươi năm, người đạt được lý thú không thể kể hết, đệ tử được nhập thất (được truyền tâm) được bốn mươi mốt người.
Ðời Ðường niên hiệu Ðại Trung năm thứ bảy (853 T.L.), ngày mùng chín tháng giêng, Sư tắm gội xong, ngồi kiết già vui vẻ thị tịch. Sư thọ tám mươi ba tuổi, sáu mươi bốn tuổi hạ.
Vua ban hiệu Ðại Viên Thiền sư, tháp hiệu Thanh Tịnh.
Sư có trước tác tập Qui Sơn Cảnh Sách rất được lưu hành trong thiền môn.