THIỀN SƯ LƯƠNG GIỚI
- Chi tiết
- Được đăng ngày Chủ Nhật, 08 Tháng Hai 2009 07:35
- Viết bởi nguyen
Động Sơn - Khai Tổ Tông Tào Động - (807-869)
Sư họ Du quê ở Hội Kê. Thuở nhỏ theo thầy tụng kinh Bát-nhã đến câu "vô nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý", Sư chợt lấy tay rờ mặt hỏi thầy:
- Con có mắt, tai, mũi, lưỡi cớ sao trong kinh nói không? Ông thầy kinh lạ, bảo:
- Ta chẳng phải thầy của ngươi.
Ông giới thiệu Sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ Thiền sư Linh Mặc xin xuất gia. Năm 21 tuổi, Sư đến Tung Sơn thọ giới cụ túc.
*
Sư du phương, trước yết kiến Nam Tuyền Phổ Nguyện. Gặp ngày kỵ trai Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng:
- Cúng trai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay chăng?
Cả chúng đều không đáp được. Sư bước ra thưa:- Đợi có bạn liền đến.
Nam Tuyền bảo:- Chú nhỏ này tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.
Sư thưa:- Hòa thượng chớ ếm kẻ lành thành đứa giặc.
*
Kế đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu, Sư thưa:
- Được nghe Quốc sư Huệ Trung nói "vô tình thuyết pháp", con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy?
Qui Sơn bảo: - Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia.
Sư thưa:- Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.
Qui Sơn dựng đứng phất tử, hỏi:- Hội chăng?
Sư thưa:- Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.
Qui Sơn bảo: - Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươi nói.
Sư thưa:- Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?
Qui Sơn bảo:
- Ở Lễ Lăng tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau, có Đạo nhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió, ắt vị ấy là người ngươi kính trọng.
Sư bèn từ Qui Sơn thẳng đến Vân Nham.
*
Đến Vân Nham, Sư hỏi:- Vô tình thuyết pháp, người nào được nghe?
Vân Nham bảo:- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.
Sư hỏi:- Hòa thượng nghe chăng?
Vân Nham bảo:- Ta nếu nghe, ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.
Sư thưa:- Con vì sao chẳng nghe?
Vân Nham dựng phất tử, hỏi:- Lại nghe chăng?
Sư thưa:- Chẳng nghe.
Vân Nham bảo:
-Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp?
Sư hỏi:-Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?
Vân Nham bảo:
- Đâu không thấy kinh Di-đà nói: " Nước, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật niệm Pháp"
Ngay câu này Sư liền tỉnh ngộ, thuật bài kệ:
Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!
Vô tình thuyết pháp bất tư nghì
Nhược tương nhĩ thính chung nan hội
Nhãn xứ văn thinh phương đắc tri.
DỊCH: Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!
Vô tình nói pháp chẳng nghĩ nghì
Nếu lấy tai nghe trọn khó hội
Phải đem mắt thấy mới liễu tri.
Sư thưa:- Con còn dư tập (thói quen) chưa hết.
Vân Nham hỏi:- Ngươi từng làm gì?
Sư thưa:- Thánh đế cũng chẳng làm.
Vân Nham hỏi:- Được hoan hỉ chưa?
Sư thưa:- Hoan hỉ thì chẳng không, như trong đống rác lượm được hòn ngọc sáng.
*
Sư từ Vân Nham đi nơi khác. Vân Nham hỏi:- Đi nơi nào?
Sư thưa:- Tuy lìa Hòa thượng mà chưa định chỗ ở?
Văn Nham hỏi:- Phải đi Hồ Nam chăng?
Sư thưa:- Không.
Vân Nham hỏi:- Phải đi về quê chăng?
Sư thưa:- Không.
Vân Nham hỏi:- Bao lâu trở lại?
Sư thưa:- Đợi Hòa thượng có chỗ ở thì trở lại.
Vân Nham bảo:- Từ đây một phen đi khó được thấy nhau.
Sư thưa:- Khó được chẳng thấy nhau.
Sắp đi, Sư lại thưa:
- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, chợt có người hỏi "tả được hình dáng của Thầy chăng?" , con phải đáp làm sao?
Vân Nham lặng thinh hồi lâu, bảo: - Chỉ cái ấy.
Sư trầm ngâm giây lâu. Vân Nham bảo:
- Xà-lê Lương Giới thừa đương việc lớn phải xét kỹ.
Sư vẫn còn hồ nghi.
*
Sau, Sư nhân qua suối nhìn thấy bóng, đại ngộ ý chỉ trước, liền làm một bài kệ:
Thiết kỵ tùng tha mít
Điều điều dữ ngã sơ
Ngã kim độc tự vãng
Xứ xứ đắc phùng cừ.
Cừ kim chánh thị ngã
Ngã kim bất thị cừ
Ưng tu nhậm ma hội
Phương đắc khế như như.
DỊCH: Rất kỵ tìm nơi khác
Xa xôi bỏ lảng ta,
Ta nay riêng tự đến
Chỗ chỗ đều gặp va.
Và nay chính là ta
Ta nay chẳng phải va
Phải nên như thế hội
Mới mong hợp như như.
Sư đến Phần Đàm yết kiến Thủ tọa Sơ. Thủ tọa dạy chúng có câu:
Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!
Phật giới, đạo giới bất tư nghì.
DỊCH
Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!
Phật giới, đạo giới chẳng nghĩ nghì.
Sư hỏi:
- Phật giới, đạo giới chẳng hỏi, người nói Phật giới đạo giới là gì? Chỉ xin nói một câu?
Thủ tọa làm thinh không đáp. Sư giục:- Sao chẳn nói mau?
Thủ tọa bảo:- Nói chẳng được.
Sư thưa:- Nói cũng chưa từng nói, cái gì mà nói chẳng được ?
Thủ tọa cũng không đáp. Sư thưa:- Phật với đạo chỉ là danh tự, sao chẳng dẫn kinh.
Thủ tọa hỏi:- Kinh nói thế nào?
Sư thưa:- Được ý quên lời (đắc ý vong ngôn).
Thủ tọa bảo:- Vẫn còn đem ý kinh đến đầu tâm làm thành bệnh.
Sư thưa:-Nói Phật giới, đạo giới bệnh lớn nhỏ?
Thủ tọa không đáp được, sáng hôm sau tịch. Thời nhân gọi Sư là hỏi chết Thủ tọa.
*
Đến cuối niên hiệu Đại Trung đời Đường (khoảng 840), Sư trụ núi Tân Phong tiếp dẫn học chúng, về sau giáo hóa thạnh hành ở Động Sơn thuộc Dự Chương Cao An.
Một hôm, nhân ngày thiết trai cúng kỵ Vân Nham, có vị Tăng hỏi:
- Hòa thượng ở chỗ Tiên sư được chỉ dạy gì?
Sư đáp:- Tuy ở trong ấy mà chẳng nhờ Tiên sư chỉ dạy.
Tăng hỏi:- Đã chẳng nhờ chỉ dạy, lại thiết trai cúng dường làm gì?
Sư bảo:- Tuy nhiên như thế, đâu dám trái lại Tiên sư.
Tăng hỏi:
- Hòa thượng trước yết kiến Nam Tuyền tìm được manh mối, vì sao lại thiết trai cúng dường Vân Nham?
Sư bảo:
- Ta chẳng trọng Tiên sư đạo đức, cũng chẳng vì Phật pháp, chỉ trọng chẳng vì ta nói phá.
Sau, Sư quyền khai Ngũ vị để giáo hóa học đồ. Ngũ vị là: 1) Chánh trung thiên. 2) Thiên trung chánh. 3) Chánh trung lai. 4) Thiên trung chí. 5) Kiêm trung đáo. Có bài tụng ngũ vị:
Chánh trung thiên
Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền
Mạc quái tương phùng bất tương thức
Ẩn ẩn du hoài cựu nhựt hiềm.
Thiên trung chánh
Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh
Phân minh địch diện biệt vô chân
Hưu cánh mê đầu du nhận ảnh.
Chánh trung lai
Vô trung hữu lộ cách trần ai
Đản năng bất xúc đương kim húy
Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.
Thiên trung chí
Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị
Hảo thủ du như hỏa lý liên
Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí
Kiêm trung đáo
Bất lạc hữu vô thùy cảm hòa
Nhân nhân tận dục xuất thường lưu
Chiết hiệp hoàn qui khôi lý tọa.
DỊCH
Chánh trung thiên
Đêm tối canh ba trăng rọi hiên
Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết
Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.
Thiên trung chánh
Mất sáng lão bà tìm cổ kính
Rõ ràng đối diện đâu riêng chân
Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.
Chánh trung lai
Đường cái trong không cách trần ai
(bụi bặm)
Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ
Đã thă?g tiền triều cắt lưỡi tài.
Thiên trung chí
Hai kiếm đua nhau cần gì tránh
Tay khéo vẫn như lò lửa sen
Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí
Kiêm trung đáo
Chẳng rơi không, có ai dám hòa
Người người trọn muốn vượt dòng thường
Tan hiệp trở về ngồi trong tro.
[Đại ý Ngũ vị: Chánh là chỉ cho Thể, Không, Lý. Thiên là chỉ cho Dụng, Sắc, Sự.
Chánh trung thiên: Chánh vị thể có đủ thiên vị dụng sự tướng. Cái hay đủ là thể, cái bị đủ là dụng. Cho nên lấy cái thể hay đủ định làm quân vị (vị vua). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về vị quân. Người tu mới nhận được dụng đủ nơi thể, sự trong lý, là vị tu hành hữu vi. Về ngũ vị công huân nó thuộc vị thứ nhất. Phối hợp vị thứ của Đại thừa thì cùng vị Tam hiền trước thập địa tương đương.
Thiên trung chánh: Thiên vị dụng có đủ chánh vị thể. Nhân cái dụng hay đủ, định là Thần vị (vị tôi). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về thần vị. Trên phương diện tu hành mà luận, người tu nhận được lý đủ nơi sự, thể sẵn trong dụng, là vị liễu đạt được lý các pháp đều không, chỉ một chân như bình đẳng. Đứng về mặt Đại thừa là kiến đạo.
Chánh trung lai: Các pháp hữu vi như lý tùy duyên, như tánh duyên khởi. Là vị quân thị thần (vua xem tôi) vậy. Người tu nơi đây như lý tu sự, như tánh khởi hành, cùng với pháp thân Bồ-tát từ sơ địa đến thất địa tu hành còn dụng công, tương đương.
Thiên trung chí: Sự dụng toàn hợp nơi thể, trở về vô vi. Tức là vị thần hướng quân (tôi nhằm vào vua). Người tu đến đây trọn ngày tu mà lìa niệm tu, trọn đêm dụng mà chẳng thấy dụng công. Là tương đương với hàng Bồ-tát từ bát địa đến thập địa, trong vị tu đạo vô công dụng.
Kiêm Trung đáo: - Thể dụng đồng đến, sự lý cùng hành. Tức là vị quân thần hiệp (vua tôi hiệp) vậy. Là Phật quả tột cùng tối thượng.
Theo Tào Sơn giải: Chánh vị tức là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giới có muôn hình tượng. Chánh Trung thiên, bỏ lý theo sự. Thiên Trung chánh, bỏ sự về lý. Kiêm đới, thần ứng hợp các duyên, không rơi vào các cõi, chẳng phải nhiễm, tịnh, chánh, thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền, chân tông vô trước. (Tào Sơn ngũ vị Quân Thần chỉ quyết)]
Sư thượng đường dạy chúng:
- Khi Hướng làm sao? Khi Phụng làm sao? Khi Công làm sao? Khi Cộng Công làm sao? Khi Công Công làm sao?
Có vị Tăng đứng ra hỏi:- Thế nào là Hướng?
Sư đáp:- Khi ăn cơm thì sao?
- Thế nào là Phụng?
- Khi trái thì sao?
- Thế nào là Công?
- Khi buông cuốc thì sao?
- Thế nào là Cộng Công?
- Chẳng được sắc.
- Thế nào là Công Công?
- Chẳng chung.
Sư nói tụng:
Hướng
Thánh chúa do lai pháp đế Nghiêu
Ngự nhân dĩ lễ khúc long yêu
Hữu thời náo thị đầu biên quá
Đáo xứ văn minh hạ thánh triều.
Phụng
Tịnh tẩy nùng trang vi a thùy
Tử qui thanh lý khuyến nhân qui
Bách hoa lạc tận đề vô tận
Cánh hướng loạn phong thâm xứ đề.
Công
Khô mộc hoa khai kiếp ngoại xuân
Đảo ky ngọc tượng sấn kỳ lân
Nhi kim cao ẩn thiên phong ngoại
Nguyệt kiểu phong thanh hảo nhật thần.
Cộng công
Chúng sanh chư Phật bất tương xâm,
Sơn tự cao hề thủy tự thâm
Vạn biệt thiên sai minh để sự
Chá cô đề xứ bách hoa tân.
Công Công
Đầu giác tài sanh dĩ bất kham
Nghĩ tâm cầu Phật hão tu tàm
Điều điều không kiếp vô nhân hức
Khẳng hướng nam tuần ngũ thập tam.
DỊCH
Hướng
Thánh chúa từng dùng pháp đế Nghiêu
Kẻ hầu theo lễ khúc long yêu
Chợ ồn có lúc đi qua thẳng
Đến chỗ văn minh mừng thánh triều.
Phụng
Tắm sạch máu me đấy là ai?
Ngươi trong âm hưởng khuyến người về
Trăm hoa rụng hết, ca không bặt
Lại đến núi sâu hót mải mê.
Công
Hoa nở cây khô, xuân kiếp ngoại
Ngả lưng tượng ngọc, đuổi kỳ lân
Ngoài ngàn chót núi hôm nay ẩn
Trăng sáng gió lành buổi sáng tươi.
Cộng Công
Chúng sanh chư Phật nào lẫn xen
Núi tự cao chừ nước tự sâu
Ngàn sai muôn biệt sự quá rõ
Chá cô vừa hót trăm hoa cười.
Công Công
Đầu mới mọc sừng việc chẳng nên
Đem tâm cầu Phật thật hư hèn
Xa xôi không kiếp nào ai biết
Chịu hướng về nam năm mươi ba
*
Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) bửa củi, bèn bó một bó củi ném trước mặt Sư. Sư hỏi:- Nặng nhiều ít?
Tuyết Phong thưa:- Người khắp trên mặt đất chung giở không nổi.
Sư hỏi:- Sao đem đến đây được?
Tuyết Phong đáp không được.
*
Có vị Tăng hỏi:
- Luôn luôn siêng lau chùi, vì sao không được y bát, Chẳng biết người nào nên được?
Sư bảo:- Người không vào cửa được.
Tăng thưa:- Vả như người không vào cửa lại được hay không?
Sư bảo:
- Tuy nhiên như thế, chẳng được, chẳng cùng kia từ chối. Nói thẳng rằng, xưa nay không một vật, vẫn chưa nên được y bát kia. Ngươi hỏi người nào nên được, nơi đây nên có một chuyển ngữ, hãy nói có chuyển ngữ gì?
Tăng nói đến chín mươi sáu chuyển ngữ mà chưa khế hợp, một chuyển ngữ sau rốt mới khế hợp ý Sư. Sư bảo:
- Xà-lê sao không nói chuyển ngữ ấy trước?
Có vị Tăng hỏi:
- Bình thường Thầy dạy chúng con đi đường chim (điểu đạo), chưa biết thế nào là đường chim?
Sư bảo:- Chẳng gặp một người.
Tăng thưa:- Thế nào là đi?
Sư bảo:- Phải ngay dưới chân không việc khác.
Tăng thưa:- Như đi đường chim, phải là bản lai diện mục chăng?
Sư bảo:- Xà-lê nhân đâu mà điên đảo?
Tăng thưa:- Chỗ nào là con điên đảo?
Sư bảo:- Nếu không điên đảo vì sao lại nhận giặc làm con?
Tăng thưa:-Thế nào là bản lai diện mục?
Sư bảo:- Chẳng đi đường chim.
*
Ban đêm tham vấn mà không thắp đèn. Có vị Tăng ra thưa hỏi xong thối lui. Sư bảo thị giả thắp đèn và gọi vị Tăng vừa thưa hỏi đến. Vị Tăng ấy ra đến gần Sư, Sư bảo:
- Lấy hai ba lượng phấn đến cho Thượng tọa này.
Vị Tăng ấy phủi áo trở lui. Từ đây tỉnh giác bèn đem tất cả y và dụng cụ cho hết, thiết trai cúng dường.
Đến ba năm sau vị Tăng ấy đến từ giã Sư, Sư bảo:
- Đi vui vẻ!
Lúc đó, Tuyết Phong đứng hầu, hỏi Sư:
- Vị Tăng này từ giã bao lâu sẽ trở lại?
Sư bảo:
- Y chỉ biết một lần đi, mà không biết trở lại.
Vị Tăng ấy về nhà tăng đến chỗ để y bát, ngồi tịch. Tuyết Phong đến báo tin cho Sư. Sư bảo:
- Tuy nhiên như thế, so với lão tăng vẫn còn ba đời.
*
Sư thượng đường dạy chúng:
- Lại có người không đền đáp bốn ân ba cõi chăng?
Chúng đều không đáp, Sư lại bảo:
- Nếu chẳng thể nhận ý này, làm sao vượt khỏi hoạn trước sau. Hẳn phải tâm tâm chẳng chạm vật, bước bước không chỗ nơi, thường không gián đoạn mới được tương ưng. Cần phải nỗ lực, chớ nhàn rỗi qua ngày!
*
Tào Sơn Bổn Tịch đến từ Sư, Sư bèn phó chúc:
- Ta ở chỗ Tiên sư Vân Nham thân được ấn chứng Bảo cảnh tam-muội là yếu chỉ cùng tột, nay phó chúc cho ngươi. Lời rằng:
Như thị chi pháp Phật Tổ mật phó
Nhữ kim đắc chí Nghi thiện bảo hộ.
Ngân uyển thạnh tuyết Minh nguyệt tàng lộ
Loại chi phất tề Hỗn tắc tri xứ.
Ý bất tại ngôn Lai cơ diệc phó
Động thành sào cựu Sai lạc cố trữ.
Bối xúc câu phi Như đại hỏa tụ
Đản hình văn thể Tức thuộc nhiễm ô.
Dạ bán chánh minh Thiên hiểu bất lộ
Vị vật tác tắc Dụng bạt chư khổ.
Tuy phi hữu vi Bất thị vô ngữ
Như lâm Bảo cảnh Hình ảnh tương đổ.
Nhữ bất thị cừ Cừ chánh thị nhữ
Như thế anh nhi Ngũ tướng hoàn cụ.
Bất khứ bất lai Bất khởi bất trụ
Bà bà hòa hòa Hữu cú vô cú.
Chung bất đắc vật Ngữ vị chánh cố
Trùng ly lục hào Thiên chánh hồi hỗ.
Điệp nhi vi tam Biến tận thành ngũ
Như trị thảo vị Như kim cang Sử.
Chánh trung diệu hiệp Sao xướng song cử.
Thông tông thông đổ Hiệp đới hiệp lộ
Thố nhiên tắc cát Bất khả phạm ngỗ.
Thiên chân nhi diệu Bất thuộc mê ngộ
Nhân duyên thời tiết Tịch nhiên chiêu trước.
Tế nhập vô gian Đại tuyệt phương sở
Hào hốt chi sai Bất ưng luật lữ.
Kim hữu đốn tiệm Duyên lập tông thú
Tông thú phân hỷ Tức thị qui củ.
Thông thông thú cực Chân thường lưu chú
Ngoại tịch trung diêu Hệ câu phục thử.
Tiên Thánh bi chi Vị pháp đàn độ
Tùy kỳ điên đảo Dĩ tri vi tố.
Điên đảo tưởng diệt Khẳng tâm tự hứa
Yếu hiệp cổ triệt Thỉnh quân tiền cổ.
Phật đạo thùy thành Thập kiếp quán thọ
Như hổ chi khuyết Như mã chi chú.
Dĩ hữu hạ liệt Bảo kỷ trân ngự
Dĩ hữu kinh dị Ly nô bạch cổ.
Nghệ dĩ xảo lực Xạ trúng bách bộ
Tiên phong tương trị Xảo lực hà dư.
Mộc nhân phương ca Thạch nữ khởi vũ
Phi tình thức đáo Ninh dung tư lự.
Thần phụng ư quân Tử thuận ư phụ
Bất thuận phi hiếu Bất phụng phi phụ.
Tiềm hành mật dụng Như ngu như lỗ
Đản năng tương tục Danh chủ trung chủ.
DỊCH
Pháp như thế ấy Phật Tổ thầm trao
Nay ngươi được đó Nên khéo giữ gìn.
Chén bạc đựng tuyết Trăng sáng che cò
Loại đó chẳng đồng Lẫn thì biết chỗ.
Ý chẳng ở lời Cơ đến cũng đến
Động thành hang ổ Sai rơi đoái giữ.
Tránh chạm đều lỗi Như đống lửa lớn
Chỉ bày màu vẻ Liền thuộc nhiễm ô.
Nửa đêm sáng tỏ Trời sáng chẳng bày
Vì vật làm phép Dùng nhổ các khổ.
Tuy chẳng hữu vi Chẳng phải không nói
Như đến gương báu Hình bóng thấy nhau.
Ngươi chẳng phải y Y chính là ngươi
Như trẻ trong nôi Năm tướng đầy đủ.
Chẳng đi chẳng lại Chẳng dậy chẳng đứng
Tu oa! Tu oa! Có câu không câu
Trọn chẳng được vật Vì lời chưa rõ.
Lại lìa sáu hào Thiên chánh hồi hỗ
Chồng chất làm ba Biến khắp thành năm
Như vị cô trị Như sử Kim Cang.
Chánh trung khéo gộp Nhịp xướng đồng cử
Thông tông thông đồ Gộp hẹp gộp rộng
Yên lặng thì tốt Chẳng nên phạm nghịch.
Thiên chân mà diệu Chẳng thuộc mê ngộ
Thời tiết nhân duyên Lặng lẽ rành rõ.
Nhỏ vào chẳng hở Lớn tột chỗ nơi
Sai trong mảy may Chẳng hợp luật lữ.
Nay có đốn tiệm Duyên lập tông thú
Tông thú phân vậy Tức là qui củ
Tông không thú tột Chân thường trôi chảy.
Ngoài yên trong loạn Cột ngựa dẹp chuột
Thánh trước thương đó Vì làm pháp thí.
Tùy kia điên đảo Lấy nâu làm trắng
Tưởng điên đảo diệt Là tâm tự nhận.
Cốt hiệp vết xưa Xin xem xưa trước
Phật đạo sắp thành Mười kiếp quán cây.
Như hang của cọp Như trạm của ngựa
Do có thấp kém Bàn báu xe quí.
Do có sợ hãi Mèo nhà bò trắng
Nghề do sức kéo Trăm bước bắn trúng.
Tên nhọn sắp chạm Sức khéo làm gì?
Người gỗ vừa ca Gái đá đứng múa
Tình thứ? chẳng đến Đâu cho suy nghĩ.
Thần phụng nơi vua Con thuận nơi cha
Không thuận chẳng hiếu Không phụng chẳng phụ.
Làm thầm dụng kín Như ngu như ngốc
Chỉ hay tiếp nối Gọi chủ trong chủ.
*
Sư lại bảo: Thời đại mạt pháp người nhiều càn tuệ, nếu cần nghiệm rõ chân ngụy có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy). Một là kiến sấm lậu, căn cơ không rời địa vị, rơi trong biển độc. Hai là tình sấm lậu, dính mắc tại xoay về và bỏ đi, chỗ thấy chênh lệch khô khan. Ba là ngữ sấm lậu, giỏi nghiên cứu mất chân tông, căn cơ mờ mịt trước sau, trí ô trọc trôi chảy. Đối ba thứ này, ngươi phải khéo biết.
Sư lại làm ba bài kệ cương yếu:
1.- Sao xướng câu hành
Kim châm song tỏa bị
Hiệp lộ ẩn toàn cai
Bảo ấn đương phong diệu
Trùng trùng cẩm phùng khai.
2.- Kim tỏa huyền lộ
Giáo hỗ minh trung ám
Công tề chuyển giác nan
Lực cùng vong tiến thối
Kim tỏa võng man man.
3.- Bất đọa phàm thánh
Sư lý câu bất thiệp
Hồi chiếu tuyệt u vi
Bối phong vô xảo chuyết
Điện hỏa thước nan trung.
DỊCH
1.- Nhịp xướng đồng hành
Chìa vàng hai khóa đủ
Ẩn bày thảy bao trùm
Ấn báu tài chống gió
Lụa gấm đứt đường khâu
2.- Lưới vàng bủa đường huyền
Lẫn nhau sáng trong tối
Chuyển giác khó, công bằng
Sức tột quên lui tới
Lưới vàng bủa khắp nơi
3.- Chẳng rơi phàm thánh
Sự lý đều chẳng mắc
Soi lại bặt u vi
Trái gió không khéo vụng
Điện chớp khó theo tầm.
Sư lại làm kệ rằng:
Đạo vô tâm hiệp nhân
Nhân vô tâm hiệp đạo
Dục thức cá trung ý
Nhất lão nhất bất lão.
DỊCH
Đạo không tâm hợp người
Người không tâm hợp đạo
Muốn biết ý trong đó
Một già một chẳng già.
Sư bệnh, sai Sa-di báo tin Vân Cư hay. Sư dặn Sa-di:
- Vân Cư hoặc hỏi Hòa thượng an vui chăng, ngươi chỉ nói con đường Vân Nham sắp dứt. Ngươi nói xong phải đứng xa, e y đánh ngươi.
Sa-di lãnh mệnh đi báo tin, nói chưa dứt lời đã bị Vân Cư đánh một gậy.
*
Sắp viên tịch, Sư bảo chúng:
- Ta có tiếng tăm ở đời, người nào vì ta trừ được?
Cả chúng đều không đáp được, lúc đó ông Sa-di ra thưa:
- Xin pháp hiệu Hòa thượng.
Sư bảo:- Tiếng tăm của ta đã hết.
Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?
Sư đáp:- Có.
Tăng thưa:- Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?
Sư bảo:- Lão tăng xem y có phần.
Tăng thưa:- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?
Sư bảo:- Khi Lão tăng xem chẳng thấy có bệnh.
Sư lại hỏi Tăng:
- Lìa cái thân hình hài rỉ chảy này, ngươi đến chỗ nào cùng ta thấy nhau?
Tăng không đáp được
Sư bèn làm bài kệ:
Học giả hằng sa vô nhất ngộ
Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ
Dục đắc vong hình dẫn tung tích
Nỗ lực ân cần không lý bộ.
DỊCH
Kẻ học hằng sa ngộ mấy người
Lỗi tại tầm y trên đầu lưỡi
Muốn được quên thân bặt dấu vết
Nỗ lực trong không bước ấy ngươi.
Sư sai cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư chợt mở mắt bảo:
- Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật, là tu hành chân chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?
Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn luyến mến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai, Sư cũng tùng chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: - Tăng-già không việc, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo.
Sư vào trượng thất ngồi yên mà tịch.
Bấy giờ là tháng ba năm thứ mười niên hiệu Hàm Thông nhà Đường (869). Sư thọ sáu mươi ba tuổi, được bốn mươi hai tuổi hạ. Vua sắc phong là Ngộ Bổn Thiền sư.