headertvtc new


   Hôm nay Chủ nhật, 24/11/2024 - Ngày 24 Tháng 10 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

khanhtueSuOng2024

TÀO SƠN BỔN TỊCH THIỀN SƯ

Tổ thứ hai Tông Tào Động - (840-901)

Sư họ Huỳnh hiệu Bổn Tịch, quê ở Bồ Điền Tuyền Châu (nay là tỉnh Phước Kiến huyện Bồ Điền). Lúc nhỏ, Sư chuyên học Nho. Năm mười chín tuổi, Sư lên núi Linh Thạch ở huyện Phước Đường xuất gia, đến hai mươi lăm tuổi thọ giới cụ túc. Khoảng niên hiệu Hàm Thông (860-874), Sư đi tham vấn Thiền tông. Trước, Sư đến Động Sơn (nay là tỉnh Giang Tây huyện Cao An) tham vấn Thiền sư Lương Giới.

*

Động Sơn hỏi: ?Xà-lê tên gì? Sư thưa: ?Bổn Tịch.? Động Sơn bảo: ?Lại nói lên trên? Sư thưa: -Chẳng nói.? Động Sơn hỏi:-Vì sao chẳng nói? Sư thưa:-Chẳng tên Bổn Tịch. Động Sơn gật đầu. Từ đây, Sư vào nhập chúng.

*

Sư theo hầu Động Sơn mấy năm. Một hôm, Sư đến từ tạ đi nơi khác. Động Sơn mật truyền Tông chỉ, lại hỏi: -Ngươi đi đến chỗ nào? Sư thưa: -Đến chỗ không biến dị. Động Sơn bảo: -Chỗ không biến dị lại có đến sao? Sư thưa: -Đến cũng chẳng biến dị.

*

Sư đi đến Tào Khê lễ tháp Tổ, trở về Cát Thủy. Chúng nghe danh Sư tìm đến thỉnh khai pháp. Vì ngưỡng mộ Lục Tổ, Sư đặt tên núi là Tào Sơn. Thời gian sau bị giặc loạn, Sư dời về huyện Nghi Huỳnh. Có người cư sĩ cúng sở nhà Hà Vương cho Sư trụ trì. Sư đổi tên Hà Vương ra Hà Ngọc. Nơi đây giáo hóa hưng thạnh, học giả các nơi đua nhau kéo đến, Tông chỉ Động Sơn được rực rỡ.

*

Sư dạy chúng:

- Tình phàm kiến Thánh là khóa kín đường huyền, hẳn phải hồi hỗ.

Người lấy chánh mạng thật phải đủ ba thứ đọa: Một là phi mao đới giác. Hai là bất đoạn thanh sắc. Ba là bất thọ thực.

Khi ấy, Trù Bố Nạp hỏi:- Phi mao đới gác là cái gì đọa?

Sư đáp:- Là loại đọa (bản xưa chép Sa-môn đọa).

- Bất đoạn thanh sắc là cái gì đọa?

- Là tùy đọa (tùy loại đọa).

- Bất thọ thực là cái gì đọa?

- Là tôn quí đọa.

*

Nhân Tăng hỏi Ngũ vị quân thần chỉ quyết, Sư giải thích:

- Chánh vị là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giới có hình vạn tượng. Chánh trung thiên là trái lý theo sự. Thiên trung chánh là bỏ sự vào lý. Kiêm đới là thầm ứng chánh duyên chẳng rơi vào các hữu, chẳng nhiễm chẳng tịnh, chẳng chánh chẳng thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền không mắc chân tông, Tiên đức từ trước suy xét một vị này rất diệu rất huyền, phải xét kỹ biện rõ.

Quân là chánh vị, Thần là thiên vị. Thần hướng quân là Thiên trung chánh. Quân thị thần là Chánh trung thiên. Quân thần đạo hiệp là Kiêm đới.

Tăng hỏi:- Thế nào là quân?

Sư đáp:

- Đức diệu trên hoàn vũ, cao sáng khắp bầu trời (diệu đức tôn hoàn vũ, cao minh lãng thái hư).

- Thế nào là thần?

- Máy linh hoằng đạo thánh, trí chân lợi quần sanh (linh cơ hoằng thánh đạo, chân trí lợi quần sanh).

- Thế nào là thần hướng quân?

- Không rơi những đường khác, lắng tình nhìn mặt vua (bất đọa chư dị thú, ngưng tình vọng thánh dung).

- Thế nào là quân thị thần?

- Dáng điệu tuy chẳng động, đuốc sáng vẫn không thiên (diệu dung tuy bất động, quang chúc bản vô thiên).

- Thế nào là quân thần đạo hiệp?

- Hồn nhiên không trong ngoài, dung hòa trên dưới yên (hồn nhiên vô nội ngoại, hòa dung thượng hạ bình).

Sư lại bảo:

- Lấy quân thần thiên chánh mà nói, chẳng cho phạm ở giữa. Cho nên thần khen vua, không dám có lời chê bai ấy vậy. Đây là Tông yếu pháp của ta. Kệ rằng:

            Học giả tiên tu thức tự tông

            Mạc tương chân tế tạp ngoan không

            Diệu minh thể tận tri thương xúc

            Lực tại phùng duyên bất tá trung.

            Xuất ngữ trực giao thiêu bất trước

            Tiềm hành tu dữ cổ nhân đồng

            Vô thân hữu sự siêu kì lộ

            Vô sự vô thân lạc thủy chung.

Dịch:

            Học giả trước cần hiểu tự tông

            Chớ đem chân tế lẫn ngoan không.

            Tột thể diệu minh biết xúc chạm

            Sức tại phùng duyên chẳng mượn trung.

            Thốt lời cần phải thiêu chẳng đến

            Thầm đi nên với cổ nhân đồng.

            Không thân có việc siêu đường tẻ

            Không việc không thân lạc thủy chung.

Vân Môn hỏi:- Thế nào là hạnh Sa-môn?

Sư đáp:- Ăn lúa mạ của thường trụ ấy vậy.

- Liền khi ấy đi thì sao?

- Ngươi lại chứa được chăng?

- Chứa được.

- Ngươi làm sao chứa?

- Mặc y ăn cơm có cái gì khó.

- Sao chẳng nói mang lông đội sừng?

Vân Môn lễ bái.

*

Sư bảo chúng:

- Các ông trọn giữ cách thức, sao chẳng cùng y nói một chuyển ngữ, khiến y chẳng nghi đi?

Vân Môn ở trong chúng bước ra hỏi:

- Chỗ mật mật (thầm kín) vì sao chẳng biết có?

Sư đáp:- Chỉ vì mật mật nên chẳng biết có.

- Người này làm sao thân cận?

- Chớ nhằm chỗ mật mật thân cận.

- Khi chẳng nhằm chỗ mật mật thì sao?

- Mới giỏi thân cận.

Vân Môn: dạ! dạ!

*

Tăng Nhuệ thưa:- Con nghèo cùng xin Thầy cứu giúp.

Sư bảo:- Xà-lê Nhuệ lại gần đây!

Thanh Nhuệ lại gần.

Sư bảo:

- Kẻ nhà nghèo ở Tuyền Châu uống xong ba chén rượu, vẫn nói chưa dính môi.

*

Chỉ Y đạo giả đến tham vấn, Sư hỏi:

- Đâu chẳng phải Chỉ Y đạo giả ư?

Đạo giả thưa:- Chả dám.

- Thế nào là việc của Chỉ Y?

- Chiếc áo cừu vừa khoác vào thân, muôn pháp thảy đều như.

- Thế nào là dụng của Chỉ Y?

Đạo giả lại gần: dạ! liền đứng tịch.

Sư bảo:- Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng giỏi đến thế ấy?

Đạo giả chợt mở mắt hỏi:

- Một chân tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào?

Sư bảo:- Chưa phải diệu.

- Thế nào là diệu?

- Chẳng mượn! mượn!

Đạo giả trân trọng liền tịch.

Sư dạy bài tụng:

            Giác tánh viên minh vô tướng thân

            Mạc tương tri kiến vọng sơ thân.

            Niệm dị tiện ư huyền thể muội

            Tâm sai bất dữ đạo vi lân.

            Tình phân vạn pháp trầm tiền cảnh

            Thức giám đa đoan tán bản chân.

            Như thị cú trung toàn hiểu hội

            Liễu nhiên vô sự tích thời nhân.

Dịch:

            Tánh giác viên minh không tướng thân

            Chớ đem thấy biết dối xa gần.

            Niệm khác bèn lầm huyền thể ấy

            Tâm sai sao được đạo chung thân.

            Tình phân muôn pháp chìm cảnh trước

            Thức biện lăng xăng mất bản chân.

            Trong câu như thế toàn lãnh hội

            Rõ ràng vô sự tích thời nhân.

*

Tăng hỏi:- Sa-môn đâu không phải là người đủ lòng đại từ bi?

Sư đáp:- Phải.

- Chợt gặp lục tặc đến phải làm thế nào?

- Cũng phải đủ đại từ bi.

- Thế nào là đủ đại từ bi?

- Dùng một cây kiếm dẹp sạch.

- Sau khi dẹp sạch thế nào?

- Mới được hòa đồng.

*

Tăng hỏi:- Mày với mắt cùng biết nhau chăng?

Sư đáp:- Chẳng biết nhau.

- Vì sao chẳng biết nhau?

- Vì đồng tại một chỗ.

- Thế ấy là chẳng phân?

- Mày chẳng phải là mắt, mắt chẳng phải là mày.

- Thế nào là mắt?

- Quả nhiên rồi.

- Thế nào là mày?

- Tào Sơn lại nghi.

- Tại sao Hòa thượng lại nghi?

- Nếu chẳng nghi tức quả nhiên rồi.

*

Tăng hỏi:- Thế nào là  kiếm không mũi?

Sư đáp:- Chẳng do rèn luyện mà thành.

- Dụng nó thế nào?

- Người gặp đều chết.

- Người chẳng gặp thì sao?

- Cũng phải rơi đầu.

- Người gặp đều chết là cố nhiên, người chẳng gặp vì sao lại rơi đầu?

- Ông chẳng thấy nói ?hay sạch tất cả? sao?

- Sau khi sạch hết thế nào?

- Mới biết có cây kiếm này.

*

Tăng hỏi:- Huyễn vốn nào chân?

Sư đáp:- Huyễn vốn nguyên chân.

- Chính khi huyễn làm sao hiển bày?

- Tức huyễn liền hiển.

- Thế ấy thì trước sau chẳng lìa nơi huyễn?

- Tìm huyễn tướng không thể được.

*

Sư hỏi vị Tăng: -Làm gì? Tăng thưa:-Quét đất. Sư hỏi:-Trước Phật quét hay sau Phật quét? Tăng thưa: -Trước sau đồng thời quét. Sư bảo: -Đem đôi giày qua cho Tào Sơn.

*

Tăng hỏi Hương Nghiêm: -Thế nào là đạo? Hương Nghiêm đáp: -Khô mộc lý long ngâm.(trong cây khô có rồng ngâm) Tăng hỏi: -Thế nào người trong đạo? Hương Nghiêm đáp: -Độc lâu lý nhãn tình.(trong đầu lâu có tròng con mắt) Tăng không lãnh hội, đến hỏi Thạch Sương: ?Thế nào là khô mộc lý long ngâm?? Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeo cái hỉ.? Tăng hỏi:-Thế nào độc lâu lý nhãn tình? Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeo thức.Tăng không lãnh hội đến trình với Sư. Sư bảo:

- Thạch Sương ông già Thanh văn khởi cái kiến giải.

Sư làm bài tụng:

            Khô mộc long ngâm chân kiến đạo

            Độc lâu vô thức nhãn sơ minh.

            Hỉ thức tận thời tiêu tức tận

            Đương nhân na biện trọc trung thanh.

Dịch:

            Cây khô rồng ngâm thật thấy đạo

            Đầu lâu không thức mắt rạng ngời.

            Hỉ thức hết thời tin tức lặng

            Người này đâu biện đục trong trong.

Tăng lại hỏi Sư:- Thế nào khô mộc lý long ngâm?

Sư đáp:- Huyết mạch chẳng đoạn.

- Thế nào độc lâu lý nhãn tình?

- Khô chẳng hết.

- Lại có người được nghe chăng?

- Trọn người trên đại địa chưa có một người chẳng nghe.

- Khô mộc lý long ngâm là chương cú gì?

- Chẳng biết chương cú gì, nguời nghe đều mất.

*

Sư dạy chúng:

- Chư Tăng ở đây cốt dưới y áo hội thông được việc hướng thượng, chớ có rảnh rang qua ngày. Nếu chỗ thừa đương đã rõ ràng, liền chuyển được chư thánh về sau lưng mình, mới là tự do. Nếu chuyển chẳng đặng, hẳn phải học được thập thành, lại cần đến sau lưng các ngài khoanh tay nói đại thoại gì? Nếu chuyển được chính mình thì tất cả cảnh thô trọng đến đều làm chủ được. Ví như đi trong chỗ lầy trợt té cũng làm chủ được. Như có vị Tăng hỏi ngài Dược Sơn: ?Trong giáo lý tam thừa lại có Tổ ý chăng?? Dược Sơn đáp: ?Có.? Tăng thưa: ?Đã có, Tổ Đạt-ma lại đến làm gì?? Dược Sơn bảo: ?Chỉ vì có cho nên đến.? Thế là đâu không phải làm chủ được chuyển được về nơi mình sao?

Kinh nói: ?Phật Đại Thông Trí Thắng, mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp chẳng hiện trước, chẳng đặng thành Phật đạo.? Nói kiếp là đới (kẹt) vậy, gọi đó là thập thành, cũng gọi là đoạn sấm lậu (rỉ chảy). Chỉ là đầu mười đường đã bặt, chẳng quên đại quả, nên nói thủ trụ đam trước, gọi là thủ thứ thừa đương không phân quí tiện.

Ta thường thấy trong tùng lâm thích bàn một thứ hai thứ, lại hay thành lập được sự chăng? Những cái ấy chỉ nhằm việc đã qua hiển bày. Các ông chẳng thấy ngài Nam Tuyền nói: ?Cho ông thập thành, so với Vương lão sư vẫn còn một đường tuyến.? Rất khó! việc đến đây cần phải chín chắn mới được minh bạch tự tại. Bất luận thiên đường địa ngục ngạ quỉ súc sanh, chỉ là tất cả chỗ chẳng dời đổi, nguyên là người thuở xưa, cốt yếu chẳng đi con đường xưa. Nếu có tâm vui mừng thành đới trước nếu thoát được giản trạch là sao? Cổ đức nói: ?Chỉ e chẳng được luân hồi.?

Các ông nói phải làm sao? Như người hiện nay nói có chỗ tịnh khiết, thích hướng về việc ấy. Đây là bệnh thật khó trị. Nếu việc thô trọng ở thế gian lại là nhẹ, bệnh tịnh khiết thật là nặng. Như pháp vị Phật, pháp vị Tổ trọn là đới trước. Tiên sư nói: ?Tâm nghĩ là phạm giới, nếu được Pháp vị là phá trai.? Hãy bảo thế nào là được vị? Chỉ là pháp vị Phật, pháp vị Tổ, vừa có tâm vui mừng là phạm giới. Như hiện nay nói phá trai phá giới là khi làm phép ba phen yết-ma, ấy sớm đã phá rồi. Nếu là bệnh tham sân si thô trọng, tuy khó dứt mà lại nhẹ, còn bệnh vô vi vô sự tịnh khiết lại nặng không có gì thêm được. Tổ sư ra đời cũng chỉ vì cái ấy, chẳng riêng vì các ông. Hiện nay làm kẻ rảnh rang qua ngày, làm con chồn, con trâu tu hành lại thích, chẳng phải có thiền có đạo. Như các ông mỗi thứ tìm kiếm, tìm Phật tìm Tổ, cho đến Bồ-đề Niết-bàn, đến bao giờ thôi dứt xong xuôi ư? Đều là tâm sanh diệt. Do đó chẳng giống như con chồn, con trâu ngơ ngơ không biết, chẳng biết Phật, chẳng biết Tổ, cho đến Bồ-đề Niết-bàn và nhân quả thiện ác. Chỉ đói đến là ăn cỏ, khát đến thì uống nước. Nếu được thế ấy, chẳng lo chẳng xong xuôi. Đâu chẳng nghe nói: ?Tính toán chẳng thành ấy là biết có (Tâm), mới hay mang lông đội sừng kéo cày mang bừa.? Được cái tiện nghi này, mới là đạm bạc. Đâu chẳng thấy đức Di-lặc, A-súc và những thế giới Diệu Hỉ v.v? vẫn bị thượng nhân kia (Duy-ma-cật) gọi là Bồ-tát giải đãi không hổ thẹn. Cũng nói là biến dịch sanh tử, vẫn e còn phần nhỏ giải đãi.

Nơi việc bổn phận phải nên làm sao? Cần phải chín chắn mới được. Mỗi người đều có một chỗ để ngồi, dù Phật ra đời xâm phạm chỗ ấy cũng không được. Thể hội cái ấy tu hành chẳng là thích thú lắm ư! Muốn biết việc này, chính nó khiến ta thành Phật thành Tổ, cũng chính nó khiến ta rơi trong tam đồ lục đạo. Tuy nhiên như thế, vẫn không có chỗ dụng, mà lìa y cũng chẳng được, cốt cùng y làm chủ tể mới được. Nếu làm chủ tể được tức là không còn biến dịch. Nếu làm chủ tể không được tức là biến dịch. Ngài Vĩnh Gia nói: ?Phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương.?

Tăng hỏi:- Thế nào là phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương?

Sư đáp:- Chỉ là cái ấy.

- Làm sao khỏi được?

- Biết có (Tâm) liền được, dùng khỏi làm gì? chỉ là Bồ-đề Niết-bàn phiền não vô minh v.v? thảy đều chẳng cần khỏi, cho đến việc thô trọng  ở thế gian cũng thế. Miễn biết có (Tâm) là được chẳng cần khỏi, khỏi tức đồng biến dịch rồi. Cho đến thành Phật thành Tổ, Bồ-đề Niết-bàn, những cái ấy đều họa ương chẳng nhỏ. Tại sao như vậy? Bởi vì biến dịch. Nếu không biến dịch, cần phải chạm việc tự do mới được.

Nam Châu Soái Nam bình Chung Vương nghe danh Sư cho sứ đi thỉnh. Sư chẳng đến, chỉ biên bài tụng của Đại Mai để đáp:

            Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm

            Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm

            Tiều khách ngộ chi du bất cố

            Dĩnh nhân na đắc khổ truy tầm.

Dịch:

            Cây khô gãy mục tựa rừng xanh

            Mấy độ xuân về tâm chẳng sanh

            Lão tiều trông thấy nào đoái nghĩ

            Dĩnh khách thôi thì chớ hỏi phanh.

*

Sư dạy chúng kệ rằng:

            Tùng duyên tiến đắc tương ưng tật

            Tựu thể tiêu đình đắc lực trì

            Miết khởi bản lai vô xứ sở

            Ngô sư tạm thuyết bất tư nghì.

Dịch:

            Từ duyên tiến được tương ưng nhanh

            Đến thể lặng dừng đắc lực chậm

            Chợt khởi từ xưa không chỗ nơi

            Thầy ta tạm nói không nghĩ nghị.

*

Sư thượng đường, có vị Tăng bước ra hỏi:

?Thế nào là người đại xiển-đề?? Sư đáp: ?Chẳng sợ nghiệp.? Tăng hỏi: ?Thế nào là người vô minh?? Sư đáp: ?Trước sau chẳng giác ngộ.? Tăng hỏi: ?Hai người này ai ở trước?? Sư đáp: ?Người vô minh.? Tăng hỏi: ?Người xiển-đề vì sao ở sau?? Sư đáp: ?Người hướng đi.? Tăng thưa: ?Thế ấy thì người vô minh chẳng từ ngày nay đi.? Sư đáp: ?Phải.? Tăng thưa: ?Đã chẳng từ ngày nay đi, vô minh từ chỗ nào đến?? Sư đáp: ?Chỗ sáng chẳng dám vào.? Tăng thưa: ?Đâu chẳ?g phải chẳng minh chẳng ám.? Sư bảo: ?Phải.? Tăng thưa: ?Chính khi ấy thế nào?? Sư bảo: ?Chẳng cho chạm.? Sư lại bảo:

- Xiển-đề có nhiều thứ: 1- Giết cha giết mẹ, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng, hủy hoại già-lam, đây quyết định thật báo chịu các thứ khổ. 2- Cũng làm như trước, nhưng mà giết cha vô minh mẹ tham ái, chẳng tin có Phật Pháp Tăng có thể phá, có già-lam có thể hoại, cho là nghiệp từ tâm mà thành, nên đọa cũng chịu các thứ quả hư vọng. Hai loại này lên xuống chẳng đồng. 3- Biết chính mình có việc bản lai, gọi là cha mẹ, chẳng nhân bên ngoài mà được, không tu không chứng, phi nhân phi quả, chẳng do thấy được, chẳng từ chứ?g mà thành. Chỗ được, chẳng khởi chấp cha, gọi là giết, chẳng khởi chấp mẹ, gọi là hại, tức là tất cả việc bổn phận chẳng giữ chẳng còn, nên gọi là giết hại. Vừa có mảy may kính trọng, được ý vị thì chẳng thành, chỉ biết có việc chính mình, nên gọi là đại xiển-đề. Do đây dấy lên diệu lực tức là thể hội tông thừa từ trước, thừa kế việc nhà, cần cắt đường huyền, phá các cong vạy, như Lão nhân Tân Phong khéo chỉ.

*

Đời Đường niên hiệu Thiên Phục (901) mùa hạ năm Tân Sửu ban đêm, Sư hỏi Tri sự:

- Hôm nay là ngày mấy tháng mấy?

Tri sự thưa:- Ngày rằm tháng sáu.

Sư bảo:

- Tào Sơn bình sanh đi hành khước đến nơi chỉ biết chín mươi ngày là một hạ, sáng mai giờ thìn ta đi hành khước.

Hôm sau, đúng giờ thìn thắp hương, Sư ngồi yên lặng mà hóa, thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy tuổi hạ. Vua ban thụy là Nguyên Chứng Thiền sư, tháp hiệu Phước Viên.

[ Quay lại ]