headertvtc new


   Hôm nay Thứ năm, 05/12/2024 - Ngày 5 Tháng 11 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

khanhtueSuOng2024

THIỀN SƯ KHẮC VĂN CHƠN TỊNH

Phần Đàm

Sư họ Trịnh, quê ở Văn Hương Thiểm Phủ. Họ Trịnh ở thế tục phần lớn làm công khanh. Sư sanh ra có những điều quái lạ, mồ côi mẹ sớm, thờ dưỡng mẫu rất chí hiếu mà không được thương. Dưỡng mẫu hà khắc Sư một cách đau khổ, cha ông thương xót bảo đi du học bốn phương. Sư đến Bắc Tháp ở Phục Châu nghe kỳ túc Quảng Công thuyết pháp, cảm động đến rơi lệ. Sư ở lại đây thờ Quảng Công làm thầy.

Quảng Công cho Sư hiệu là Khắc Văn. Đến năm hai mươi lăm tuổi thi sở học, được xuất gia thọ giới cụ túc. Sư học kinh luận đều được thấu đáo. Sư đi học các lớp giáo lý ở Kinh Lạc, nhân đi kinh hành tại hành lang điện Long Môn thấy đắp tượng một vị Tỳ-kheo con mắt như ở trong định. Bỗng nhiên Sư tự mất, bảo người bạn rằng: Chỗ ta chất chứa như Ngô Đạo Tử vẽ người vật, tuy thật là khéo mà chẳng phải sống. Khi ấy, Sư bỏ đi, nói: Ta sẽ sang phương Nam học đạo.

*

Niên hiệu Trị Bình năm thứ hai (1065), Sư an cư tại Đại Qui. Ban đầu nghe vị Tăng tụng lời Vân Môn, ?Tăng hỏi: Phật pháp như trăng trong nước phải chăng, Vân Môn đáp: sóng xanh không đường thoát?, Sư hoát nhiên có tỉnh. Khi ấy Thiền sư Huệ Nam đang ở núi Hoàng Bá, Sư tìm đến đó, gặp Chơn Giác Duy Thắng làm Thủ tọa. Một hôm Huệ Nam nhắc lời cổ đức: ?niệm tán trên lầu chuông, trồng rau dưới chân giường?, bảo chúng hạ ngữ. Duy Thắng nói: Cọp mạnh ngồi ngay lộ. Huệ Nam vui vẻ bèn thối viện để Duy Thắng trụ. Thiền sư Huệ Nam về am Tích Thúy an trụ. Sư đến am ba phen mà lời nói chẳng hợp, tự nói: Lão này chỉ là Tăng tu hành không hiểu lời nói của ta. Sư ra đi, đến Thúy Nham yết kiến Thiền sư Thuận. Thuận tri kiến rất cao mà thích nói sắn bìm, nên các nơi gọi là Thuận bà già.

             Thuận hỏi Sư: - Vừa rời chỗ nào?

             Sư thưa: - Hoàng Bá.

             Thuận hỏi: - Am chủ được an vui chăng?

             Sư thưa: - An vui.

             Thuận hỏi: - Ông người xứ nào?

             Sư thưa: - Quan Tây.

             Thuận bảo: - Sao lời nói chẳng giống người Quan Tây?

             Sư thưa: - Đi du học hồi nhỏ.

             Thuận hỏi: - Làm Tăng tại đâu?

             Sư thưa: - Xuất gia với Hòa thượng Quảng tại Bắc Tháp. Hòa thượng Quảng cùng Hòa thượng Tú đồng tham Song Tuyền Úc.

             Thuận cười nói: - Thiền sư Khoảnh cùng Nột Tổ Ấn tham vấn hai vị đại lão này mà không hiểu ngữ  thoại kia. Đến tôi hiện nay tham được chút ít thiền cần thấy hai vị mà đã thiên hóa. Thuận lại hỏi: Tân trụ trì Hoàng Long thế nào?

             Sư thưa: - Khỏe mạnh.

             Thuận nói: - Y chỉ hạ được một chuyển ngữ hay liền trụ Hoàng Long, về thiền còn chưa mộng thấy.

             Sư nhân đây đại ngộ tông chỉ Lâm Tế, liền thấy chỗ dùng của Huệ Nam, Sư bèn làm mấy bài tụng gởi về. Huệ Nam đọc qua rất tán thưởng. Sư trở về tham lễ.

             Huệ Nam hỏi: - Từ chỗ nào lại?

             Sư thưa: - Thúy Nham.      

             Huệ Nam bảo: - Vừa gặp Lão tăng không ở nhà.

             Sư hỏi: - Chưa biết đi đâu?

             Huệ Nam nói: - Phổ thỉnh ở Thiên Thai, vân du tại Nam Nhạc.

             Sư thưa: - Nếu vậy học nhân cũng được đi tự tại.

             Huệ Nam hỏi: - Giầy mang dưới chân được ở đâu?

             Sư thưa: - Lô Sơn bảy trăm tiền mua được.

             Huệ Nam bảo: - Đâu từng tự tại?

             Sư chỉ thưa: - Đâu từng chẳng tự tại.

             Huệ Nam kinh ngạc. Ở đây thời gian lâu, Sư từ giã đến dưới hội Thúy Nham Thuận.

*

             Thiền sư Huệ Nam trụ Hoàng Long, Sư cùng đến đó.

             Huệ Nam bảo: - ?Vừa rồi sai thị giả cuốn rèm, hỏi y:  Khi cuốn rèm lên thì thế nào? Y đáp: Xem thấy thiên hạ. Hỏi: Khi buông rèm xuống thì thế nào?  Y đáp: Nước rỉ chẳng thông. Hỏi: Khi chẳng cuốn chẳng buông thì thế nào? Y đáp không được.? Ngươi thử đáp thay xem?

             Sư thưa: - Hòa thượng thế thị giả xuống nhà Niết-bàn mới được.

             Huệ Nam gằn giọng nói: - Người Quan Tây quả không đầu não, bèn nhìn Tăng bên cạnh.

             Sư chỉ vị Tăng ấy nói: - Chỉ vị Tăng này cũng chưa mộng thấy.

             Huệ Nam cười to.

*

Sau khi Thiền sư Huệ Nam qui tịch, Sư dạo Hoành Nhạc, trở lại thủ chúng ở Ngưỡng Sơn. Đến niên hiệu Hy Ninh thứ năm (1072), Sư đến Cao An, Thái thú Tiền Công Dặc Tiên Hầu ra mắt Sư. Sư lại đến ra mắt Tiền Công, trong bình phong có con chó chạy ùa ra sủa, Sư đứng tránh một bên.

             Tiền Công giễu nói: - Thiền giả vẫn hay giáo hóa rắn cọp mà lại sợ chó sao?

             Sư đáp: - Cọp trong núi dễ dẹp, rồng giữ nhà khó trừ.

             Tiền Công khen rằng: - Thật danh chẳng dối.

             Tiền Công mời Sư trụ Động Sơn, sau trụ Thọ Thánh.

Tại Động Sơn, Sư thượng đường dạy chúng: Dưới cửa Động Sơn có khi hòa bùn hợp nước, có khi vách đứng ngàn nhẫn. Cả thảy các ông! Nghĩ nhằm chỗ hòa bùn hợp nước thấy Động Sơn. Động Sơn chẳng ở chỗ hòa bùn hợp nước. Nghĩ nhằm chỗ vách đứng ngàn nhẫn thấy Động Sơn. Động Sơn chẳng ở chỗ vách đứng ngàn nhẫn. Nghĩ nhằm tất cả chỗ thấy Động Sơn. Động Sơn chẳng ở tất cả chỗ. Ông chẳng cần thấy dây mũi của Động Sơn. Ở trong tay Động Sơn, toan ngủ mê nắm dây mũi kéo một cái, chỉ thấy con mắt định động lại chẳng biết nhau. Lại chẳng cần biết Động Sơn, hãy biết chính mình là được.

*

Sư trụ trì được mười hai năm, chán sự ồn náo, xin nghỉ việc đi dạo Tam Ngô. Khi Sư đến Kim Lăng, Vương Kinh Công mới về hưu ở tại Định Lâm, nghe Sư đến ra nghinh đón. Ông rất vui mừng đàm đạo trọn ngày.

             Công hỏi: - Các kinh ở đầu đều có nêu thời, xứ, riêng kinh Viên Giác không thấy là sao?

             Sư đáp: - Giáo lý đốn ngộ diễn bày là chỉ thẳng cho chúng sanh chỗ nhật dụng hiện tiền chẳng thuộc xưa nay. Hiện nay Lão tăng cùng Tướng công đều nhập Đại Quang Minh tạng, du hí tam-muội lẫn làm chủ khách không can dự thời xứ.

             Kinh Công rất vui, cùng em lập một ngôi chùa, thỉnh Sư làm Tổ khai sơn thứ nhất.

*

Sư đăng tòa nói: Đại chúng! Một hội ngày nay cần biết chăng? Là tịnh duyên thời tiết thành Phật của đại chúng. Hội hôm nay là do Thừa tướng Kinh Quốc Công cùng Phán Phủ Tả thừa cúng nhà, hiến vườn rừng làm chùa, thỉnh Sơn tăng xiển dương Tổ ý. Quí vị lại hiểu chăng? Chỉ thẳng cho đại chúng tức tâm kiến tánh thành Phật. Đại chúng tin được chăng? Nếu tự tin được liền biết tánh mình xưa nay thành Phật. Dù có chưa tin cũng sẽ thành Phật. Chỉ vì mê đã lâu, chợt mới nghe nói thật khó mà tin được. Tất cả thiện tri thức trong thiên hạ xưa nay, tất cả thiền đạo, tất cả ngữ ngôn, đều là từ trong Phật tánh của thiện tri thức lưu xuất dựng lập. Song lưu xuất đó là ngọn, Phật tánh là gốc. Gần đây Phật pháp đáng thương, phần nhiều bỏ gốc theo ngọn, bội chánh hợp tà. Chỉ nhận ngôn cú của cổ nhân làm thiền làm đạo, có gì giao thiệp. Dù cho Tổ Đạt-ma Tây sang cũng không thiền có thể nói, chỉ cốt đại chúng tự chứng tự ngộ, tự thành Phật, tự dựng lập tất cả thiền đạo. Huống là thần thông biến hóa, chúng sanh vốn tự đầy đủ chẳng nhờ tìm bên ngoài. Hiện nay phần nhiều người tìm cầu bên ngoài, bởi cội gốc tự không có chỗ ngộ, một bề làm khách đếm trân bảo cho người, trọn là hư vọng chẳng khỏi trôi lăn trong sanh tử. Đại chúng! Ngày nay hai Tướng công kiến lập đại đạo tràng này, làm đại Phật sự, đưa chúng sanh ra khỏi khổ trôi lăn sanh tử, bày hiện diệu tâm tịch diệt rộng lớn xưa nay, khai phát thần thông đại quang minh tạng xưa nay. Chỉ vì mê nên ở trong hàng phàm phu, ngộ thì chính nay là Hiền Thánh. Đại chúng! Nói nhiều ắt cách đạo càng xa, làm trò cười cho hàng đạo nhân mắt sáng, trong chúng có người mắt sáng chăng? Thời nay Phật pháp lẫn lộn cốt phân tà chánh khiến mọi người chẳng rơi vào tà kiến, làm con mắt chánh cho trời, người. Có chăng? Có chăng? Sư im lặng giây lâu nói: Tôi trọn chẳng dám khinh các người, các người đều sẽ làm Phật. Sư xuống tòa.

*

 Kinh Công rất vui. Ông kể đạo hạnh của Sư tâu về triều, vua ra chiếu ban hiệu cho Sư là Chơn Tịnh Thiền sư. Không bao lâu, Sư chán sự ồn náo trở về Cao An cất am dưới núi Cửu Phong để tên là Đầu Lão. Học giả bốn phương kéo đến. Được sáu năm, Sư lại ra trụ trì Qui Tông. Hai năm sau, Trương Thiên Giác gặp Sư ở Lô Sơn, cố thỉnh Sư trụ trì Phần Đàm. Không bao lâu, Sư lui về ở Vân Am.

*

Niên hiệu Sùng Ninh năm đầu (1102) ngày mùng một tháng mười, Sư mắc bệnh. Đến ngày rằm, bệnh Sư nhẹ. Hôm nay, Sư đem mọi dụng cụ cần thiết của Sư phân phối cho đệ tử hết. Giữa đêm mười sáu, Sư tắm gội rồi ngồi kiết già, chúng thỉnh thuyết pháp, Sư cười nói:

                        Năm nay bảy mươi tám      

                        Bốn đại sắp rời rã

                        Gió lửa đã ly tán

                        Sắp đi còn gì nói.

             Nói xong, Sư viên tịch, thọ bảy mươi tám tuổi.

[ Quay lại ]