headertvtc new


   Hôm nay Thứ hai, 18/11/2024 - Ngày 18 Tháng 10 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

khanhtueSuOng2024

SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM - TÁC PHẨM

 Phụ trích vài bài thơ của Điều Ngự Giác Hoàng:

1. ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

          Địa tịch đài du cổ   

          Thời lai xuân vị thâm        

          Vân sơn tương viễn cận     

                                                 Hoa kính bán tình âm,       

                                                 Vạn sự thủy lưu thủy        

                                                 Bách niên tâm ngữ tâm      

                                                 Ỷ lan hoành ngọc địch       

                                                  Minh nguyệt mãn hung khâm.

Dịch:  LÊN NÚI BẢO ĐÀI

          Đất vắng đài thêm cổ

          Ngày qua xuân chửa nồng.

          Gần xa mây núi ngất

          Nắng rợp ngõ hoa thông.

          Muôn việc nước trôi nước

          Trăm năm lòng nhủ lòng.

          Tựa lan, nâng ống sáo

          Đầy ngực ánh trăng lồng.

                                   (Ngô Tất Tố)

2. XUÂN VÃN

          Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

          Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.

          Như kim khám phá Đông hoàng diện

          Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Dịch: CUỐI XUÂN

          Thuở bé chưa từng rõ sắc không

          Xuân về hoa nở rộn trong lòng

          Chúa xuân nay bị ta khám phá

          Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng.

3. SƠN PHÒNG MẠN HỨNG

                         I        

          Thùy phược cánh tương cầu giải thoát

          Bất phàm hà tất mích thần tiên

          Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão

          Y cựu vân trang nhất tháp thiền.

                         II

          Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

          Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn

          Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

          Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

Dịch: PHÒNG NÚI KHỞI HỨNG

                               I        

          Ai trói lại mong cầu giải thoát

          Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên

          Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão

          Như cũ vân trang một chõng thiền.

                                 II

          Phải quấy niệm rơi hoa buổi sớm

          Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm

          Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng

          Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.

4. ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ

          Huân tận thiên đầu mãn tọa hương

          Thủy lưu sơ khởi bất đa lương

          Lão dung ảnh lý tăng quan bế

          Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường.

Dịch: ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH

          Nghìn hương thắp hết ngát đầy tòa

          Làn nước nhẹ nhàng gió lạnh qua

          Dưới bóng đa già chùa cửa đóng

          Ve ngâm dấy khởi tứ thu xa.

*
*     *

Chẳng những Trúc Lâm Đầu-đà làm thơ chữ Hán mà còn làm phú, ca chữ nôm nữa. Như Cư Trần Lạc Đạo Phú và Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca... Ở đây chúng ta trích vài hội trong bài Cư Trần Lạc Đạo để thấy rõ tinh thần của Ngài.

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ

- Hội thứ nhất-

Mình ngồi thành thị.

Nết dùng sơn lâm

Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh,

Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí,

Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý,

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chú tri âm.

Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng,

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.

Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục,

Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đâm.

Sách dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu,

Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nửa hoàng kim.

- Hội thứ hai -

Biết vậy !

Miễn được lòng rồi,

Chẳng còn phép khác.

Gìn tính sáng, tính mới hầu an,

Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.

Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương,

Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác.

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương,

Di-đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.

Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe,

Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.

Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay.

Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc.

Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí  nữa thiên cung,

Dầu hay mến thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác...

Đến sau hội thứ mười, kết thúc bằng bài kệ chữ Hán. Kệ rằng:

          Ở trần vui đạo hãy tùy duyên,

          Đói đến thì ăn nhọc ngủ liền,

          Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,

          Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

          (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,

          Cơ tắc xan hề khốn tắc miên,

          Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,

          Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.)

[ Quay lại ]