headertvtc new


   Hôm nay Thứ năm, 18/12/2025 - Ngày 29 Tháng 10 Năm Ất Tỵ - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mong
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên Ni


THIỀN VIỆN TRÚC LÂM TÂY THIÊN NI

Năm 2005 chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã cấp cho thiền phái Trúc Lâm 40 ha rừng để xây dựng thiền viện Ni ở phía bắc. Ni sư Thuần Giác được chỉ định ra Bắc nhận lãnh việc xây dựng này. Vào ngày 19 tháng 2 năm Mậu Tý (26/03/2008) vừa qua, quí thầy ở Thiền viện Trúc Lâm, Trúc Lâm Tây Thiên, Sùng Phúc, quí sư cô thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên Ni cùng với quí Phật tử đã làm lễ khai móng xây dựng chánh điện. Hiện nay thiền viện đã xây dựng được phần bờ kè ...   Dưới đây  là những hình ảnh láng trại sinh hoạt dự bị cho công trình xây dựng.

Hình ảnh ủa đất làm con đường đi lên Trúc Lâm Tây Thiên Ni


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một số hình ảnh xây dựng tại TV Trúc Lâm Tây Thiên Ni


Khảo sát đất xây dựng Thiền Viện Tây Thiên Ni

Lễ khai móng xây dựng chánh điện




Xây dựng bờ kè


 

 

 

Lễ Quy Y Tam Bảo 2


LỄ QUY Y TAM BẢO

Tại THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU

]]]

 Quy Y Phật: Đệ tử nguyện trọn đời không quy y thiên, thần quỷ, vật
 Quy Y Pháp: Đệ tử nguyện trọn đời không quy y ngoại đạo, tà giáo
 Quy Y Tăng: Đệ tử nguyện trọn đời không quy y thầy tà, bạn dữ

Năm giới của phật tử tại gia

ĐỆ TỬ

 1- Không sát nhân, hại Vật
 2- Không gian tham trộm cắp
 3- Không tà dâm
 4- Không nói dối
 5- Không uống rượu

 - Nguyện bỏ các điều ác

 - Nguyện làm các việc lành

 - Giữ thân tâm thanh tịnh

 - Làm Phật tử chân chánh


Giới thiệu thiền viện Trúc Lâm Trí Đức


NHÂN DUYÊN HÌNH THÀNH

THIỀN VIỆN TRÚC LÂM TRÍ ĐỨC

XÃ AN PHƯỚC - LONG THÀNH - ĐỒNG NAI

ĐT: 061.354 2631

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.">This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
-----------------===-----------------

Dòng thiền Trúc Lâm nước Việt bắt nguồn từ Tam Tổ mà tuôn chảy, mà thấm đượm vào đời từ 700 năm qua, cho đến bây giờ vẫn tuôn chảy, vẫn âm thầm nuôi dưỡng giới thân huệ mạng của Tăng Ni Phật tử Việt Nam. Hòa thượng Ân sư thượng Thanh hạ Từ, một thiền sư có chủng duyên sâu dày với dòng thiền nước Việt. Ngài đã nhiều năm trăn trở, nhiều năm tu tập và sau cùng Phật pháp không cô phụ người có đại chí, Hòa thượng đã thấu đạt nguồn tâm, đã tìm được lối đi cho mình và Tăng Ni tứ chúng. Từ đó dòng thiền nước Việt được hồi sinh sau một thời gian dài ngủ yên trong tịch lặng.

Dòng thiền Trúc Lâm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 tìm được thượng nguồn, hòa nhập, tuôn chảy. Các thiền viện lần lượt ra đời, đem nguồn vui đến cho nhiều người. Tăng Ni Phật tử Việt Nam hâm mộ tu thiền, hướng về Hòa thượng, hướng về chư tôn đức Tăng Ni hàng môn hạ của Ngài, như con nhỏ hướng về mẹ hiền để được nuôi dưỡng, được tắm mình trong suối mát thanh lương, cho cuộc đời hết khổ được vui.

Chánh báo như thế, y báo như thế, và cứ như thế mà các thiền viện tiếp tục ra đời, trong đó có thiền viện Trúc Lâm Trí Đức. Pháp sự hưng thịnh nơi đời, âu cũng là do đức hóa lưu phương của Hòa thượng Ân sư. Chư Tăng Ni Phật tử, hàng môn hạ của Ngài nguyện suốt đời, nhiều đời, nép mình dưới ánh sáng và lòng từ vô biên của Hòa thượng mà tu tập, mà thành tựu sự nghiệp giác ngộ giải thoát cho chính mình và tha nhân.

Mồng 09 tháng 09 tiết trùng dương, đâu chỉ là một ngày rất đẹp của Đệ Tam Tổ Trúc Lâm Yên Tử ngày xưa, mà còn là một ngày rất hữu duyên cho Thiền phái Trúc Lâm ngày nay. Bởi vì đây là một ngày vui mới, mừng Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức ra đời.

                                    Bẵng quên thân thế chẳng hề vương,
                                    Lặng lẽ ngồi lâu lạnh thấu giường.
                                    Năm hết trong non không sẵn lịch,
                                    Nhìn xem cúc nở biết trùng dương.
                                                            
Thiền sư Huyền Quang

Với thiền sư cuộc đời giả tạm, thân thế phù du, chẳng có gì đáng để vấn vương. Tâm yên cảnh lặng không chỉ làm thanh thản lòng người mà ảnh hưởng luôn đến cả sự vật chung quanh. Một khi tâm đã an, muôn vật theo đó cũng an. Thiền sư vui với núi rừng, buông bỏ tất cả lợi danh, không có gì bận bịu buộc ràng. Thân, tâm và cảnh đều tịch tĩnh nên tháng ngày cũng lặng lẽ nhi nhiên, không ưu tư nghĩ ngợi muộn phiền. Tuy nhiên hoa nở biết hoa nở, trùng dương tự hiện tiền. Đó là cuộc sống của hàng thức giả, ngộ lẽ chân thường, biết an dưỡng thân tâm.

Những mong từ đây, theo dấu chân Tổ sư, Tăng Ni Phật tử không chỉ hân hưởng sắc hương của hoa cúc, hoa mai, mà hơn hết là đóa hoa tâm, kính nguyện mỗi mỗi đều được thanh thoát mãn khai.

Phối cảnh Thiền Viện Trúc Lâm Trí Đức 

Video Lễ tụng kinh tại TVTL TRÍ ĐỨC

 

CHÚC THỌ THẦY


CHÚC THỌ THẦY

Nam-mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni

 Kính ngưỡng bạch thầy, kính bạch chư tôn thiền đức hiện tiền, hôm nay là ngày 27 tháng 07 năm Mậu Tý, trước bầu không khí trang nghiêm thanh tịnh, toàn thể tăng ni Phật tử chúng con đầy đủ duyên lành, xin được đảnh lễ thầy, kính dâng lên lời tác bạch.

Nam mô Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni.

Cung kính bạch thầy, hôm nay là ngày khánh tuế thầy, ngày chúng Tăng vừa tự tứ, ngày mười phương chư Phật hoan hỷ, và mùa Vu-lan báo hiếu còn đọng lại trong người con Phật, cũng là ngày vui chung của toàn thể huynh đệ chúng con. Chúng con đồng quỳ dưới chân thầy, hướng về thầy thành tâm cung kính đảnh lễ, mừng thầy vừa tròn thêm một tuổi đạo, chúng con kính chúc thầy được nhiều sức khỏe, thầy sống lâu, trí tuệ thầy viên mãn, trên con đường Phật sự giáo hóa chúng sanh luôn được thuận lợi.

Kính bạch thầy, huynh đệ chúng con tự nghĩ, duyên lành hội đủ, chúng con được nép mình dưới ánh hào quang của chư Phật, nhờ phúc trí thanh tịnh của Hòa thượng tông sư, nhờ oai đức từ bi của thầy mà huynh đệ chúng con yên ổn hòa hợp tu học dưới ngôi Tam bảo Thường Chiếu này. Thầy đã đang và sẽ dìu dắt chúng con thực hành con đường thiền Phản quan tự kỷ, là soi lại chính mình, mà Sư ông đã nhen nhúm gầy dựng khôi phục lại từ nhiều năm qua. Ngày nay dòng thiền Trúc Lâm bừng dậy, tuôn chảy mạnh trên mảnh đất Việt Nam, không những thế mà lan rộng ở hải ngoại. Thầy là người giữ gìn giềng mối thiền tông, tiếp độ hậu lai, làm chỗ quy hướng cho hàng tăng ni Phật tử chúng con nương tựa tu học.

Năm nay tuổi thầy 66, lại già hơn những năm trước, tóc thầy lại bạc thêm, như để báo hiệu tiến trình lão hóa của cơ thể, trong khi đó Phật sự của thầy lại đa đoan, mỗi lúc lại tăng. Từ việc Giáo hội bên ngoài và trực tiếp điều hành bên trong nội chúng, thầy đảm đang gánh vác mọi việc và hướng dẫn cho chúng con tu học, thầy lo cho chúng con từ vật chất lẫn tinh thần. Gương hạnh của thầy chúng con làm sao quên được. Chúng con cần phải học theo, cần phải nỗ lực thêm, và tự nguyện sống cuộc đời thanh tịnh hòa hợp hầu đem lại lợi ích cho bản thân và mọi người.

Kính bạch thầy, với tinh thần uống nước nhớ nguồn, hàng hậu học chúng con nhân ngày khánh tuế thầy, mùa báo hiếu trở về với người con Phật, ngày mười phương chư Phật hoan hỷ, hòa niềm vui chung, chúng con kính lễ mừng Khánh Tuế chúc thọ thầy. Đó cũng là tấm lòng của chúng con nghĩ đến thầy, và cũng để huynh đệ chúng con có cơ hội gần gũi bên thầy, quỳ dưới chân thầy, với tất cả tâm thành quý kính của chúng con dâng lên thầy. Thầy đã thương tưởng dìu dắt chúng con vượt qua bến mê tiến về bờ giác. Ân nghĩa ấy chúng con làm sao có thể nói hết được.

Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng
Nghĩa ân sư muôn kiếp khó đáp đền.

Thật vậy, hàng hậu học chúng con đã lang thang trong muôn kiếp luân hồi với chuỗi dài vô tận, khổ đau với mọi hình thức khác nhau, hôm nay biết được đường trở về nhà, có nơi nương tựa, lòng mừng vô hạn, dòng sanh tử cũng từ đây mà cắt đứt. Đó là duyên lành với Tam bảo, do đó chúng con cần phải tự khắc tự hứa nơi lòng là sống cuộc đời thanh tịnh hòa hợp giác ngộ giải thoát để khỏi phụ lòng Sư ông và thầy đã đem hết tâm lực, trí lực chỉ dạy dìu dắt cho chúng con. Với lòng chí thành này ngưỡng mong thầy chứng minh cho.

Kính bạch thầy, tuy rằng chúng con đã nỗ lực hết sức, song nghiệp lực tập khí của mỗi người không đồng, do vậy có những lúc chúng con bị bất giác tạo nhiều điều lỗi lầm, làm phiền đến thầy. Hôm nay nhân ngày Phật hoan hỷ, ngày Khánh tuế chúc thọ thầy, tất cả chúng con xin cúi đầu, thành tâm Sám hối, nguyện sửa đổi những lỗi lầm đã vi phạm dù vô tình hay cố ý, để mỗi ngày tu hành được tiến bộ hơn.

Lại một lần nữa, huynh đệ chúng con nhất tâm, cầu chúc sức khỏe thầy thêm nhiều, trí tuệ thầy được viên mãn, thầy sống lâu, hạnh nguyện lợi tha của thầy không dừng trụ. Chúng con cũng không quên, xin được cầu chúc cho bà Năm, thân mẫu của thầy được khỏe mạnh, ít bệnh sống lâu, người có công nuôi dưỡng thầy từ thuở nhỏ, người đã trọn đời hy sinh cho thầy, gần gũi bên thầy và chúng tăng suốt khoảng thời gian còn lại của tuổi già. Chúng con thành tâm kính chúc chư tôn thiền đức hiện tại, tăng phước, tăng thọ, bồ đề tâm viên mãn, sở nguyện viên thành.

Cuối cùng, toàn thể tăng ni Phật tử chúng con nhất tâm hướng về thầy, cầu thỉnh trên thầy thương xót chỉ dạy pháp yếu, để chúng con nương theo lời chỉ dạy của thầy tu hành tinh tiến cho được kết quả hiện tại và mai sau, ngưỡng mong thầy hoan hỷ hứa khả cho.

Nam-mô Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni.
Nam-mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát ma-ha-tát.

Hình lễ mừng khánh tuế Hòa Thượng Tôn Sư


Hình lễ khánh tuế Hòa Thượng Tôn Sư


 

 


 


 

 

 


 


 

 

 

 

 

 

 

Lời dịch giả

Lời dịch giả



Bản tiếng Việt này được dịch từ ba quyển:

 1. Thiền Uyển Mông Cầu của thiền sư Chí Minh.

2. Thiền Uyển Dao Lâm của thiền sư Tuyết Đường.

3. Thiền Uyển Mông Cầu của một thiền sư đời Tống.

Về quyển thứ nhất và thứ hai ở bản Hán được ghép chung và còn có các tên khác như: Thiền Uyển Dao Lâm Chú, Thiền Uyển Mông Cầu Dao Lâm gồm 562 tắc. Riêng quyển ba, do một vị khuyết danh (mà người ta đoán là một thiền sư đời Tống) ra công sưu tập các tắc còn sót lại, được 144 tắc. Như thế quyển Vườn Thiền Rừng Ngọc sẽ có 706 mẫu chuyện thiền.

 Trong lần tái bản này chúng tôi có sửa đổi về hình thức và nội dung tập sách như sau:

  • Về hình thức: Cứ 4 câu sắp xếp vào một bài, trong đó: phần chữ Hán và phần phiên âm được xếp ngang nhau; phần dịch nghĩa và chú thích được xếp chung liền dưới đó.

  • Về nội dung: Chúng tôi nhận thấy có 44 tắc mà thiền sư Tuyết Đường không tìm được xuất xứ. Riêng về phần chúng tôi trong khi đọc các sách thiền khác, tình cờ tìm được phần chú thích cho 10 tắc:

 1. Thiên Bát khai hoa (tắc 35)

2. Qui Tông duệ thạch (tắc 65)

3. Từ Giác dưỡng mẫu (tắc 76)

4. Tứ hiền vấn đạo (tắc 81)

5. Tam Phật hạ ngữ (tắc 82)

6. Mộc Bình thảo lũ (tắc 158)

7. Thiên Cái dục thất (tắc 161)

8. Phần Dương lục nhân (tắc 199)

9. Thứ Công điểm nhãn (tắc 377)

10. Quốc sư thủy oản (tắc 522).

 Có thể nói đây là một quyển sách nhập môn thiền học cho quí vị thiền sinh mới vào cửa thiền, và cũng là tài liệu giúp cho sự tra cứu các điển tích thiền rất tiện dụng.

Mặc dù đã cố gắng chỉnh sửa, bổ sung, song chắc chắn tập sách cũng không tránh khỏi những sai sót bất cập, mong người đọc lượng thứ.

 Thông Thiền kính ghi.

Lời tựa  


Vào đời Ðường, Lý Hãn có trước một thiên “Mông Cầu” tiện cho kẻ sơ cơ học thuộc. Từ đó về sau, có một ít người phỏng tác loại sách Mông Cầu. Ở đây xin nêu ra một vài quyển như: Thuần Chính Mông Cầu, Tân Mông Cầu, Tục Mông Cầu v.v…

Quyển sách này có tên “Thiền Uyển Mông Cầu Dao Lâm” là do phối hợp hai phần: phần I tức quyển Thiền Uyển Mông Cầu và phần II tức quyển Thiền Uyển Dao Lâm.

Quyển Thiền Uyển Mông Cầu trên là do sư Chí Minh soạn ở chùa Thiếu Lâm, non Tung Sơn vào đời Nam Tống. Thiền sư Chí Minh bắt chước theo Lý Hãn, trích dẫn sử truyện, căn cứ vào các Tổ Lục rồi biên tập việc làm của các đời Tổ sư trong Thiền Lâm, trên từ Phật Thích Ca đến cuối là Hòa thượng Huyền Minh. Mỗi câu bốn chữ, cả thảy gồm trong 562 tắc thiền ngữ, dưới thể thơ Ngẫu đối, lời lẽ hài hòa hợp thành âm vận, giúp người học thuộc dễ dàng, từ vốn liếng này có thể soi lòng và biện đạo.

Ba mươi năm sau đó, cũng đời Nam Tống, vào niên hiệu Bảo Hựu thứ 3 (1255), tại Yên Kinh nơi chùa Ðại Vạn Thọ, Thiền sư Ðức Giản hiệu Tuyết Ðường, tham khảo trích dẫn các bộ loại như kinh Phổ Diệu, Truyền Đăng Lục, Phổ Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Phật Tổ Thống Kỉ, Tăng Bảo Lục v.v… chú thích sách này rõ ràng, làm cho mỗi câu thêm thi vị, rồi giao cho Ngọc Khê tiến hành việc khắc bản, lấy tên là Thiền Uyển Dao Lâm, được xếp vào Tục tạng chữ  tập thứ 148.

Về sự lưu hành này tại Trung Quốc, đến nay cũng chưa biết rõ ràng, các tác giả ghi chép về Thiền học có Hòa thượng Nghĩa Ðế cho rằng: “Sách được lưu hành khá lâu ở Nhật Bản, tuy nhiên ở Trung Hoa thì chẳng còn. Theo ông Viễn Môn Trụ trong Ngũ Đăng Tục Lược thì vị tăng tên Tuyết Ðường Giản này thuộc môn hạ của Vạn Tùng”.

Nhờ sự kiện trên chúng ta có thể thấy ở Trung Hoa, sách này truyền bá chẳng được rộng rãi. Về niên đại truyền sang Nhật Bản cũng chưa rõ lắm. Nhờ bản chép tay thời Túc Lợi, khoảng niên hiệu Ðại Vĩnh (1521-1527), chúng ta mới biết có sách này lưu hành trong chốn tùng lâm từ trước. Ðến thời đại Ðức Xuyên (1615-1867), nó được khắc bản trước sau hai lần, thời gần đây lại được biên vào Tục Tạng Kinh. Thế thì, sách này há lại rơi vào điều hiềm nghi về văn tự thiền ư?

Than ôi! Tông phong Vạn Tùng làm sách này cốt muốn cho người chân tham thật chứng, trái lại bọn người cạn cợt lấy đó làm vốn riêng gây thành đề tài cho các cuộc tranh luận. Ðâu phải là trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược?

Thế nhưng, theo chỗ nhận định của cư sĩ Sư Hiên thì “Sách này gồm có 2000 lời, phát minh 500 việc, lời lẽ sáng tỏ mà đầy đủ, sở học của Sư sâu mà rộng, đáng cho là cao tột trong Thiền môn. Biển pháp được đúc kết thành tiêu đề, khiến kẻ hậu học bớt được mười năm nhọc nhằn, thành tựu trí nhớ hơn nửa tạng. Vậy thì, công lao cùng lòng từ bi của Sư cũng đủ cho chúng ta thấy”.

Ở đây, miễn bàn những lời tán dương rườm rà, chỉ biết quyển Mông Cầu này ra đời nhằm mục đích giúp cho người mới vào cửa Thiền có tài liệu học tập và các điệu trong chùa giải trí bằng cách ngâm nga các thi kệ.

Các cư sĩ: Nhàn, Sư Hiên, Long Sơn đề tựa.

Tiểu sử tác giả    


Tác giả là Thiền sư Chí Minh, tự là Bá Hôn, hiệu Lạc Chân Tử, lại có hiệu là Thố Am, người đời Tống ở An Châu (nay là huyện An Tân, Hà Bắc), con nhà họ Hác. Tính tình của Sư rất mực thước, dáng bên ngoài trong quê mùa chất phác, nhưng tinh thần bên trong rất là sáng suốt.

Ban đầu Sư ở chùa Hương Lâm (nay thuộc huyện Vấn, Tứ Xuyên). Nơi đây, Sư thụ giới cụ túc với Tịnh Công và ngày đêm tham cứu chẳng chút biếng trễ, lại đến thưa hỏi nơi thất Tịnh Phổ. Sau đó, tại chùa Ðông Lâm (nay thuộc Lô Sơn tỉnh Giang Tây), Sư triệt chứng. Ít lâu sau, Sư được tuyển vào chùa Siêu Hóa. Thời Nam Tống trong những năm 1226-1227, Sư nhận lời đại chúng mời về trụ chùa Thiếu Lâm thuộc Tung Sơn, Hà Nam. Chính tác phẩm Thiền Uyển Mông Cầu được hoàn thành trong lúc này.

Về sau, Sư tự làm một thiên trường ca rồi ra đi, đại chúng giữ lại chẳng được khiến mọi người càng kính ngưỡng cao đức của Sư. Ðiểm đáng tiếc là chúng ta chẳng rõ Sư mất vào năm nào, ở đâu, cùng tuổi hạ được bao nhiêu, chỉ biết Sư thuộc pháp phái Vạn Tùng.

Sau đây là một phần trong thiên trường ca do Sư làm trước khi ra đi:

          Quán cơm trước núi mở cửa rồi,

Bánh to như đấu, bánh như rây,

Lạc Dương thành ấy nhiều đàn tín,

Ðua nhau bày cúng: chuyện vua tôi.

Lão nghèo nàn, tài kém cỏi,

Do đâu lão đến múa rối tồi!

Chống gậy thẳng lên Tung Dương Lộ

Cười chỉ núi xanh, về đi thôi!

Một số hình ảnh Lễ Vu Lan và Lễ Tự Tứ - 2008

 Một số hình ảnh Lễ Vu Lan và Lễ Tự Tứ - 2008


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương trình lễ Vu Lan và lễ Tự Tứ 2008

 

CHƯƠNG TRÌNH LỄ VU LAN VÀ LỄ TỰ TỨ

Tại THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU

PL 2552 - 2008

Ngày 14 AL
 

 18 giờ 00 :   Khóa lễ Bát Nhã.
 19 giờ 30 Chư Tăng tọa thiền đón Vu lan.
                     Phật tử các nơi về Lễ phật.

Ngày 15 AL

 06 giờ 00 :  Tiểu thực.

 07 giờ 00 : Chư Tăng, Ni trong tông môn các nơi tề tựu về Tổ đình Thường Chiếu.

 08 giờ 30 : Hòa thượng Trụ trì thiền viện thuyết giảng chủ đề Vu Lan.

 11 giờ 00 : Cúng dường trai tăng (Phật tử DIỆU PHƯƠNG -  AN HẠNH cùng các Phật tử trong và ngoài nước cúng dường tịnh tài và tịnh vật cho trên một ngàn hai trăm Tăng, Ni nhân dịp lễ Vu Lan năm nay tại Thiền Viện Thường Chiếu)
 13 giờ 00 : Lễ Tự tứ.

 17 giờ 00 : Hoàn mãn.

Lời đầu sách

LỜI ĐẦU SÁCH


Già bệnh chết cứ như tên đao phủ dữ dằn luôn trong tay búa bén và lúc nào cũng sẵn sàng hạ thủ. Mọi người chúng ta có thể nói là chạy đôn chạy đáo, nhưng cuối cùng rồi không ai thoát khỏi tử thần. Trong nỗi sợ sệt bất an đó, con người đành bó tay sảng sốt kêu lên “định mệnh”. Một cuộc lữ đầy bất lực.

Ta lang thang từ độ nào chưa biết? Đường trước mịt mờ. Chừng nào thẳng tiến một lối đi? Huyết mạch, sự tồn sinh đảm bảo định mệnh? Ta mù mịt bó tay. Cứ đổ cho tại cái gì, một đấng nào đó, trông chờ ân sủng vô vọng. Ngàn đời cũng tiếng kêu la.

Đức Phật ra đời, cùng chúng sanh thẳng thắn, chấn chỉnh mọi việc, cắt đứt mối mang sanh tử, gầy dựng lại một con đường sống, giáp mặt tròn đầy và bất sinh bất diệt. Phật dạy “trí tuệ đức tướng đó xưa nay đầy đủ, tại sao không nhận, để rồi bị đắm chìm trong sanh tử?...” Mọi việc đã vậy. Tuy nhiên, trở về và buông bỏ sự lầm mê này, xem ra cũng không phải giản đơn. Các bậc Thánh trước luôn luôn mong đợi kẻ hậu học. Gương hạnh người xưa sáng rực nêu cao. Nhưng chúng ta thì chứng nào tật nấy, lầm lũi lối cũ lang thang. Chư Thánh đắng miệng, Phật Tổ quở trách, sao mà muôn kiếp trầm luân, không một lần nhìn lại ?

Vậy thì hôm nay, chúng ta thử một lần nhìn lại, nhận lại và dựng lại một con đường sống. Chúng ta chịu trách nhiệm cho chính mình. Thấy rõ sự an bày giả tạm này là do chính chúng ta đặt ra. Ta là chủ nhân ông của mọi sự kiện, là tác nhân của chính mình. Còn gì đáng quí hơn khi chúng ta biết hồi đầu. Tuyệt vời gương xưa.

Nhận lại. Đừng quên. Sống và sống cho thật đầy đủ trọn vẹn. Chớ chạy loạn, quên mình, nhận bóng. Để mắt xem lại gương xưa.

Thiền viện Thường Chiếu, 27/07/Mậu Tý

THÍCH NHẬT QUANG
 

Mười Pháp Yếu Tham Thiền

 




 ó vị tăng hỏi Thiền Sư Tịnh Thất:

- Bạch Thầy trong Thiền môn phải đủ những điều kiện gì mới có thể tiến vào đạo ?

Thiền Sư Tịnh Thất đáp:

      - Trong hang Sư tử không thú khác.
        Chỗ tượng chúa đi bặt dấu chồn.

Tăng lại hỏi:

- Tham thiền với chẳng tham thiền có gì khác ?

Sư đáp:

- Đầu đường sanh tử anh xem lấy,
  Người sống ngay trong người chết thôi.

Tăng hỏi tiếp:

- Học thiền cuối cùng có lợi ích gì ?

Sư đáp:

- Chớ hiềm nhạt nhẽo không mùi vị,
  Ăn xong tiêu hết muôn kiếp tai.

Nghe xong vị tăng rất sanh tín tâm. Sau, vị ấy dẫn đến mấy vị nữa thỉnh Sư chỉ dạy về pháp yếu tham thiền.

Sư chỉ bày mười điều :

  1. Phải rõ sanh tử là việc lớn, VÔ THƯỜNG nhanh chóng, chẳng thể phút giây quên CHÁNH NIỆM.

  2. Phải trong đi đứng nằm ngồi xét kỹ thân tâm, không thể khoảnh khắc trái phạm luật nghi.

  3. Phải hay buông bỏ kiến chấp KHÔNG, chẳng khoe khoang TỰ NGÃ, dõng mãnh tinh tiến, chớ để rơi vào TÀ KIẾN.

  4. Phải thu nhiếp sáu căn trong chánh niệm, nói nín, động tịnh hằng xa lìa vọng tưởng, ném sạch phiền não.

  5. Phải có tâm nhiệt thành cầu đạo, sáng tỏ chẳng mờ, sẵn sàng đến giáo hóa trong hang ma quân, ngoại đạo.

  6. Phải dám quên cả ăn ngủ, sừng sững cao vút, ngồi thẳng xương sống, mạnh mẽ tiến tới trước.

  7. Phải xét ý Tổ Tây sang, niệm Phật là ai? Cái gì là mặt mày xưa nay của ta.

  8. Phải xét thấu tâm thiền trước câu nói, công phu miên mật, chẳng cầu mau thành, gánh nặng trên đường dài.

  9. Phải thà chẳng phát minh, dù trải qua muôn kiếp, chẳng sanh hai niệm, nối thạnh dòng Như Lai.

  10. Phải nên chẳng lui sụt tâm đạo, rỗng suốt Bồ đề, làm lớn mạnh Phật Pháp, tiếp mãi huệ mạng Phật.

Mười điều trên đây, chẳng biết quý vị có lãnh hội chăng?

THIỀN SƯ TỊNH THẤT Ở VĨNH NGUYÊN