headertvtc new


   Hôm nay Thứ tư, 17/12/2025 - Ngày 28 Tháng 10 Năm Ất Tỵ - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mong
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

DIỄN TỪ CẢM TẠ

DIỄN TỪ CẢM TẠ


Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni,

Cung kính ngưỡng bạch Hòa thượng Ân sư, ngưỡng bạch chư Tôn thiền đức,

Kính thưa quí vị Đại Diện Chánh quyền,

Thưa toàn thể đạo tràng Phật tử,

Thưa liệt quí vị,

Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức ra đời như một nhân duyên đã được ấp ủ từ sự tu tập và chuyển hóa của chư Tăng Ni cũng như quí Phật tử dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Ân sư từ bao năm qua. Đến nay ngôi phạm vũ huy hoàng, Tăng Ni tứ chúng đồng tụ hội, thật là tùng lâm hưng thịnh, Phật pháp xương minh. Giữa khung trời tịnh thanh này, đạo tràng chúng hội muôn lòng như một, tất cả đều hoan hỷ kính mừng ngày Lạc thành hôm nay.

Tuy nhiên, đại sự sẽ không thành nếu không có sự gia trì của Tam bảo, trí tuệ và tâm hạnh của Hòa thượng Ân sư, của chư tôn đức trong Giáo Hội, trong thiền phái Trúc Lâm, đặc biệt sự hỗ trợ quan tâm giúp đỡ của Chánh quyền các cấp và sau cùng là sự có mặt, đồng tâm hợp lực của chư tôn đức Tăng Ni cũng như quí Phật tử gần xa.

Trong bầu không khí trang nghiêm đầy đạo vị, thay mặt Ban Tổ Chức chúng con xin được đê đầu đảnh lễ bái tạ Hòa thượng Ân sư, chư tôn Hòa thượng Giáo phẩm Trung ương, Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai và các tỉnh bạn, Ban Quản trị thiền phái Trúc Lâm, đảnh lễ cảm niệm công đức chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư tôn đức Tăng Ni hiện diện… đã niệm tình chiếu cố và quang lâm chứng dự Đại lễ Khánh thành hôm nay, khiến cho chúng con thật vô cùng vui mừng và xúc động. Nguyện từ lực Tam bảo gia hộ cho quí Ngài tứ đại nhu hòa, thân tâm thường lạc, quí Ngài luôn là ngọn đuốc sáng soi đường cho chúng sanh và chúng con trên bước đường tìm về bến giác.

Chúng tôi xin được gởi đến quý vị Lãnh đạo chánh quyền từ Trung ương cho đến địa phương sở tại lòng biết ơn chân thành nhất. Xin được kính chúc sức khoẻ quí vị và rất mong quí vị luôn quan tâm giúp đỡ chúng tôi trong những Phật sự chung về sau này, đem lợi ích đến cho đất nước và xã hội chúng ta hôm nay cũng như mai sau, trong tinh thần đoàn kết, đạo pháp và dân tộc.

Chúng tôi xin được cảm tạ tri ân sự có mặt và đóng góp tịnh tài tịnh vật của quí đạo tràng Phật tử gần xa. Kính chúc quí vị tâm Bồ-đề kiên cố, vạn sự kiết tường như ý. Nguyện tất cả chúng ta, những người con Phật đồng hạnh, đồng tu mãi mãi là bạn pháp, cùng dìu dẫn nhau tu tập cho đến ngày viên thành Phật đạo.

Chúng tôi cũng không quên gởi lời đồng cảm sẻ chia, lòng thương mến và biết ân chân thành đến tất cả anh em Phật tử trong ban thi công xây dựng. Suốt thời gian gần 2 năm qua, anh em đã gắn bó đồng lao cộng khổ với chúng tôi, để thiền viện có được những mái ngói sừng sững uy nghiêm rực rỡ như hôm nay. Từng viên đá từng viên gạch nơi đây sẽ mãi còn in đậm đôi tay và mồ hôi của tất cả anh em. Đó chính là phần thưởng lớn nhất cho những con người tay sần da sạm trên mọi nẻo đường xây dựng, đem mái ấm đến cho muôn nhà. Kính chúc anh em luôn có đời sống ấm no và hạnh phúc.
Sau cùng chúng tôi cũng xin chân thành cảm tạ lực lượng an ninh bảo vệ huyện Long Thành xã An Phước và các Phật tử tham gia công tác trật tự, đã giúp cho Đại lễ Khánh thành hôm nay được thập phần viên mãn. Kính chúc sức khỏe và xin gởi lời chào thân mến đến quí vị.

Kính bạch quí Ngài,

Thưa liệt quí vị,

Mặc dù đã cố gắng hết sức, song Ban Tổ Chức chúng con không sao tránh khỏi những sơ suất tất yếu trong buổi Đại lễ Khánh thành hôm nay. Ngưỡng mong quí Ngài và chư liệt vị từ bi lượng thứ cho.
Một lần nữa chúng con xin được đê đầu đảnh lễ bái tạ. Kính chúc chư tôn đức và liệt quí vị thân tâm thường lạc.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
 

DIỄN VĂN KHÁNH THÀNH

DIỄN VĂN KHÁNH THÀNH
THIỀN VIỆN TRÚC LÂM TRÍ ĐỨC
Ngày 13 tháng 12 năm Canh Dần (16/01/2011)

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni,

Cung kính ngưỡng bạch Hòa thượng Ân sư, Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm.

Kính bạch chư tôn đức Lãnh đạo Giáo Hội Trung Ương, Lãnh đạo Phật giáo Tỉnh Đồng Nai, các tỉnh bạn và Huyện Long Thành.

Ngưỡng bạch chư Tôn đức Lãnh Đạo Ban Quản Trị thiền phái Trúc Lâm,

Kính bạch chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại Đức Tăng Ni hiện diện,

Kính thưa quí vị Đại Diện Ban Dân Vận Trung Ương, Đại diện Lãnh đạo Tỉnh và các Sở Ban Ngành tỉnh Đồng Nai, Đại diện Lãnh đạo huyện Long Thành, xã An Phước và xã Long Đức.

Kính thưa quý vị Khách quý và đạo tràng Phật tử,

Trước tiên, chúng con xin được đê đầu đảnh lễ Hòa thượng Ân sư, chư tôn Giáo phẩm Giáo hội Trung Ương, xin trân trọng kính chào chư tôn thiền đức Tăng Ni, quí vị khách quí Đại diện Chánh quyền các cấp cùng toàn thể quí Phật tử đã thương tưởng chúng con về đây chứng dự lễ Khánh thành thiền viện Trúc Lâm Trí Đức hôm nay. Kính chúc quí Ngài cùng toàn thể liệt quí vị thân tâm thường lạc, Phật sự viên thành.

Thưa toàn thể quí liệt vị,

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Đại sư đã dạy:

                                Phật pháp tại thế gian,
                                Bất ly thế gian giác,
                                Ly thế mích Bồ-đề,
                                Kháp tợ tầm thố giác.

Hòa thượng Trúc Lâm thường nêu bốn câu kệ này nhằm nhắc nhở Tăng Ni tứ chúng hàng môn hạ của Ngài, hãy sống tỉnh thức ngay giữa dòng mê vọng, đi trong vô thường mà vẫn an nhiên diệu thường. Sự giác ngộ chỉ có ngay trong lòng cuộc đời, không thể lìa bỏ cuộc đời khổ đau này mà tìm thấy nguồn an vui xa xôi đâu khác. Cho nên biết Phật pháp luôn cửu trụ nơi đời, còn cuộc đời là còn Phật pháp để chúng sanh chuyển khổ thành vui.

Vâng theo di huấn của đấng Thế Tôn, Hòa thượng Trúc Lâm đã mang đại hạnh đại nguyện đi vào đời và bằng túc duyên sâu dày với Phật pháp, với thiền tông, Ngài đã một đời tu tập, một đời tận tụy khơi dậy dòng thiền Trúc Lâm Việt Nam hơn 700 năm về trước, soi sáng nguồn tâm và mang đến niềm tin vui cho biết bao người. Từ đức hóa lưu phương ấy, các thiền viện trong và ngoài nước lần lượt ra đời. Phật tử khắp nơi quy hướng về càng đông, nhu cầu tu học thiền vì thế cũng ngày càng cao.

Thấm nhuần công đức giáo hóa của Hòa thượng Ân sư, gia đình Phật tử Nguyễn Ngọc Phương pháp danh Tuệ Trí và Huỳnh thị Kim Lưu pháp danh Từ An phát tâm cúng dường 8,5 hécta đất, gia đình Phật tử Tuệ Cang Từ Tịnh cúng dường 2 hécta, tổng cộng 10,5 hécta đất tại xã An Phước huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai, với tâm nguyện xây dựng thiền viện, ngõ hầu đáp ứng nhu cầu tu thiền của Tăng Ni Phật tử ngày càng đông, đồng thời cũng là góp phần xây dựng cho xã hội đất nước Việt Nam một đời sống văn minh đạo đức, thông qua con đường tu tập của đạo Phật.

Nhận thấy đây là nhân duyên lành cộng với tâm nguyện lợi lạc quần sinh, Hòa thượng Ân sư hoan hỷ tiếp nhận và giao lại cho chúng tôi thay nhọc Ngài trực tiếp chịu trách nhiệm xây dựng thiền viện Trúc Lâm Trí Đức. Ngày mồng 8 tháng 4 năm Kỷ Sửu (02/05/2009), thiền viện Trúc Lâm Trí Đức chánh thức khởi công xây dựng. Trải qua hơn 21 tháng thi công, đến nay đã hoàn thành được các hạng mục cơ bản cho cả hai viện Tăng và Ni. Chánh điện, Tổ đường, Trai đường, Pháp đường, Tăng đường, Khách đường… đều trang nghiêm thanh tịnh.

Kính bạch chư tôn đức,

Kính thưa quí liệt vị,

Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức ra đời trong một nhân duyên tốt đẹp như vậy, trên là nhờ hồng ân Tam bảo, kế đến nương phúc trí tròn đầy của Hòa thượng Ân sư, cộng thêm sự hỗ trợ của chư tôn thiền đức Lãnh đạo Giáo hội Trung ương và địa phương, sự cố vấn của các bậc thiện hữu tri thức trong tông môn, sự quan tâm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi của các cấp chính quyền, đàn việt phát tâm, Tăng Ni tứ chúng chung sức chung lòng. Đặc biệt phải kể đến công đức cúng dường tài lực, trí lực của gia đình Phật tử Tuệ Trí Từ An, nhóm Phật tử Tuệ Hiền Từ Viên, chư Tăng Ni và các đạo tràng Phật tử thiền viện Thường Chiếu, Linh Chiếu, Phật tử trong cũng như ngoài nước, người góp công kẻ góp của, tất cả đều hết lòng tận tụy, nên Phật sự này mới sớm thành tựu như vầy. Công đức này thật lớn lao, thật chan chứa đạo tình pháp lữ Linh sơn.

Tuy nhiên, chúng tôi luôn khắc ghi lời chỉ dạy của Hòa thượng Ân sư, vẫn tâm niệm trong lòng lấy sự nghiệp giác ngộ giải thoát làm mục đích duy nhất, ngoài ra tất cả chỉ là phương tiện. Với tiêu chí ấy, chúng tôi nguyện nương hồng ân Tam bảo, nương uy đức của Hòa thượng Ân sư, của chư tôn thiền đức, Tăng Ni Phật tử nơi đây một lòng nỗ lực tiến tu, nỗ lực thắp lên ánh sáng tự tâm, và đem ánh sáng ấy đến cho mọi người. Được vậy, mới mong không cô phụ hoài bão của Hòa thượng Ân sư, không phụ lòng của chư tôn đức, đồng thời cũng đền đáp phần nào ân đàn na tín thí đã hết lòng vì Tam bảo.

Tùy theo căn cơ, khả năng, sở thích, thiền viện sẽ tạo duyên tốt nhất cho chư Tăng Ni và Phật tử trong ba lĩnh vực sau:

1. Chuyên tu.

2. Công tác hoằng pháp.

3. Công tác văn hóa.

Thiền viện được tổ chức thành ba khu vực:

1. Viện Tăng: Dành cho chư Tăng.

2. Viện Ni: Dành cho chư Ni.

3. Ngoại viện: Dành cho quý Phật tử về thiền viện tu học.

Đến nay, tuy công tác xây dựng chưa hoàn thành viên mãn, nhưng Hòa thượng Ân sư dạy có thể làm lễ Khánh thành được rồi, bởi Ngài muốn nhanh chóng đưa Tăng Ni đi vào nề nếp tu học càng sớm càng tốt. Như Thiền sư Đại Giác đã dạy “Thời gian không hẹn, mạng người khó bảo tồn. Nguồn tâm nếu đục, đường trước lại mờ, cơn bệnh chợt đến, vô phương chống đỡ. Khi ấy lo lắng ăn năn thì đã chậm mất… chưa lúc nào bằng lúc này. Mỗi người chúng ta gắng tự nỗ lực. Nên biết hạnh lành chẳng chất chứa, danh đâu thơm nức. Một pháp chóng sáng, muôn duyên tỏ rạng”.

Vâng lời Ân sư, toàn thể Tăng Ni tứ chúng trong hàng môn hạ của Ngài, đồng lòng cung thỉnh Hòa thượng chấn tích quang lâm thiền viện Trúc Lâm Trí Đức chánh thức khai mạc Đại lễ Khánh thành.

Chúng con một lòng quy ngưỡng về Hòa thượng Ân sư, hướng về chư tôn thiền đức trong tông môn, đê đầu đảnh lễ cảm trọng công đức của quý Ngài. Lòng bi mẫn của Hòa thượng và quý Ngài mãi mãi là từ lực tiếp sức cho chúng con và chúng sanh trong suốt cuộc hành trình tiến đến Phật đạo. Ngưỡng mong trên Hòa thượng Ân sư, chư tôn thiền đức thùy từ lân mẫn chứng tri cho lòng thành của chúng con.

Chúng tôi cũng không quên gởi đến chính quyền các cấp trong Tỉnh, Huyện nhà và các cơ quan sở tại lòng tri ân sâu sắc nhất của chúng tôi. Nhờ sự nhiệt tình giúp đỡ của quí vị mà công tác xây dựng thiền viện Trúc Lâm Trí Đức được tiến hành thuận lợi và mau chóng. Sau cùng chúng tôi xin được gởi đến toàn thể quí Phật tử nam nữ gần xa, đến tất cả anh em Phật tử trong ban thi công xây dựng lời cảm niệm công đức chân tình nhất, chúc quí vị luôn có cuộc sống an vui hạnh phúc. Nguyện chư Phật gia hộ cho quí Phật tử mãi mãi là những vị hộ pháp đắc lực, để tất cả chúng ta cùng khuyến tấn hỗ trợ nhau thăng tiến trên con đường Phật đạo.

Trong giờ phút trang nghiêm thanh tịnh này, khói trầm quyện tỏa, tâm hương sực nức, chúng tôi xin long trọng tuyên bố khai mạc Đại lễ Khánh Thành thiền viện Trúc Lâm Trí Đức. Kính nguyện Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, thiền môn nghiêm tịnh, hải chúng an hòa, Phật sự viên thành.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
 

Thiệp Mời Lễ Khánh Thành TVTL Trí Đức

Chương Trình Lễ Khánh Thành TVTL Trí Đức

Chương Trình

 LỄ KHÁNH THÀNH THIỀN VIỆN TRÚC LÂM TRÍ ĐỨC

(12-13 tháng chạp Canh Dần nhằm 15-16/01/2011)

Ngày 12-12 AL

(15/01/2011)

Sáng 7 giờ 30:

 - Cung đón Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni ban Quản Trị
    Thiền phái Trúc Lâm.
 - Chào mừng quí quan khách và chư Phật tử.

Chiều 13 giờ 30:

  - Khai kinh cầu nguyện.

Tối 17 giờ 30:

 - Đêm văn nghệ cúng dường mừng Lễ Khánh thành
    thiền viện Trúc Lâm Trí Đức
do nhóm nghệ sĩ Phật
    tử TP. Hồ  Chí Minh trình diễn.

Ngày 13-12 AL

(16/01/2011)

 

  +  Sáng 7 giờ 30:

  - Cung nghinh Hoà thượng Tôn sư chứng minh.
  - Cung nghinh chư tôn giáo phẩm Lãnh Đạo Giáo hội,
    chư Tôn Đức Tăng Ni.
  - Tiếp đón Quan khách, chư vị Lãnh Đạo Chánh
     quyền các cấp và sở tại cùng toàn thể đạo tràng
     chư  Phậttử.

  +  Sáng 8 giờ 30:  Lễ chính thức 

  - Niệm Phật
  - Tuyên bố lý do.
  - Giới thiệu thành phần tham dự.
  - Diễn văn Khánh thành.
  - Báo cáo công tác xây dựng.
  - Cảm tưởng của Đại diện Phật tử.
  - Phát biểu của quan khách Lãnh đạo.
  - Đạo từ của Hoà thượng Chứng minh.
  - Cắt băng khánh thành.
  - Lễ cầu nguyện An Vị Phật.
  - Cảm tạ của Ban tổ chức.
  - Hồi hướng bế mạc

  +  Sáng 10 giờ:  

 - Thiết trai cúng dường

 +  Chiều 13 giờ:
  - Phát quà cho bà con nghèo


 Mọi chi tiết xin liên hệ số điện thoại:

061 3700 497

0903 142 142

Sơ đồ đường đi

 

Thiền Đường Vô Ưu

 
THIỀN ĐƯỜNG VÔ ƯU
Sydney-Australia

6 Fraser Rd Canley Vale - New South Wales –Australia

1- Quá trình hình thành:

 Khởi đầu,do nhân duyên trong những năm 1990   qua các băng giãng Phật pháp gửi từ Việt Nam qua,của Hoà thượng Tôn Sư ( HT  Thích Thanh Từ).
Các Phật Tử các nơi và  ở Úc càng  hiểu rỏ về Giáo Pháp của đức Phật  và rất  mến mộ Tu Thiền theo phương pháp của HT rất đông.

* Năm 1991  các đạo Hửu Đắc Huệ,Nguyên Đạo,Thiện Nghiêm… thành lập nhóm tu thiền đầu tiên tại  Sydney-AUSTRALIA. Đầu tiên, nhờ Chùa  Phước Huệ -Wetherrill  Park-NSW cho tạm sinh hoạt bên trong thư viện Chùa mỗi thứ bãy.

* Năm 1996 dời về trường Công Lập King Park Public School. Đai Đức Phước Tấn giúp mượn  phòng thể dục  trường  để sinhhoạt.

* 30-4-2000 Sau khi mua được lô đất Dọn về  6 Fraser Rd Canley Vale - New South Wales –Australia. Xây dựng đơn sơ,tạm có nơi sinh hoạt tu học. 29 thiền sinh cố gắng  đóng góp,trả nợ ngân  hàng.

* Năm 2005  Sữa chữa tạm thời,nới rộng thêm nơi tu tập..

* Năm 2010 ,sau thời gian Phật tử ngày càng đông hơn,nay đang xây cất lại ,đầu năm 2011 sẽ khánh thành.

2- Hoà Thượng Tôn Sư ( Thích Thanh Từ) đặt tên trong chuyến hoằng pháp năm  1996:

             Đạo Tràng Vô Ưu  Úc Châu  (ASOKA  ZEN CENTRE  Australia)   
             Sau Khi xây dựng năm 2011 sẽ đổi tên:  Thiền Tự Hoa Vô Ưu ( Hoà thượng Nhật Quang đặt tên.)

3- Diện Tích: 1200  M2  (20X60M) :   <đóng góp mua >

Diện tich đất nhỏ,rất gần ga xe lữa,thành phố,dễ đi lại.
Địa điểm trong thành phố,nhưng  xung quanh rất yên tịnh,phía trước là công viên.

4- Hoạt Động Tu Tập:
Huynh Trưỡng  Hướng dẫn cùng các Thiền Sinh  sinh hoat Thứ Bãy mỗi tuần:
Có  khoảng  40-50 Phật tử sinh hoạt .

Từ 9 giờ sáng: Tung kinh – Toạ Thiền- Nghe Pháp ( các Băng giãng của Thầy Cô ở  Việt Nam..)

Ấn tống, In băng giãng,kinh sách .. Thiền Tông phổ biến cho Phật tử Úc Châu…

Năm 1996 – Năm 2003 :  Hoà Thượng Tôn Sư trong 2 chuyến Hoằng Pháp Úc- Đạo tràng cũng tổ chức nhiều buổi giãng pháp và  lễ qui y ở Sydney,có rất đông  ( hàng ngàn) Phật tử tham dự . Có H T Nhật Quang,Ni Sư Hạnh Huệ tháp tùng.

Đạo tràng cũng tổ chức nhiều buổi giảng pháp và  lễ qui y ở Sydney, có rất đông( hàng ngàn) Phật tử tham dự .

Quí Thầy Cô từ Việt Nam thỉnh thoảng sang Úc,đều lưu lại vài hôm hoặc 1 tuần lễ, sinh hoạt, giảng Pháp…Năm 2005 Thầy Thông Lưu  hướng dẫn sinh hoạt được 2 năm.

Năm 2007, Thầy Thông Phương  giảng pháp tai Thiền Đường trong chuyến viếng thăm Syney & Úc Châu.

Lễ đặt đá xây dựng vào này rằm tháng tư 2009, công việc đang tiến hành cho đến ngày hôm nay dự kiến khánh thành vào năm 2011

Sau khi xây cất xong, tạm đầy đủ, ổn định cơ sở, sẽ thỉnh  vị Thầy trụ trì từ Việt Nam, để  tăng trưỡng sinh hoạt  Đạo Tràng.  
 

Thiền Viện Bảo Chơn

THIỀN VIỆN BẢO CHƠN

             + Địa Chỉ : 729 Wilton Road Peterborough, NH 03458
             +  ĐT: 603 784 5244
             +  Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
             +  Website: tmmeditationcenter.com

TVTL Chánh Thiện

THIỀN VIỆN TRÚC LÂM CHÁNH THIỆN

chanhdien

VIDEO - LỄ An Vi Phật

 

 


  Liên hệ :-  Đại Đức Thích Đạt Ma Khế Định

            -  Đại Đức Thích Đạt Ma Bảo Tú

            Điện Thoại:  0166 219 1346

website: http://www.truclamchanhthien.net

Nằm ẩn mình ở giữa những dãy núi, nhấp nhô uốn lượn như những con rồng thu nhỏ trên mảnh đất hình mâm xôi phía Tây giáp với xã Sông Phan, phía Bắc giáp huyện Hàm Thuận Nam, phía Nam giáp với huyện Hàm Tân. Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Thiện tại: xã Sông Phan, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận, tuy còn là sơ khai chưa có chính thức đặt đá xây dựng, song với tâm nguyện tha thiết của Phật tử Mai Văn Bình và Đoàn Thị Thu thành tâm cúng dường mảnh đất trên và được sự chấp thuận của Hòa Thượng Tôn Sư và Quí Thầy trong Ban quản trị Thiền phái Trúc Lâm, ngày 09/11/2009 (nhằm ngày 23 tháng 09 Kỷ Sửu) Hòa Thượng Trúc Lâm đã cắt cử hai Thầy:

                    1. Đại Đức Thích Đạt Ma Khế Định

                    2. Đại Đức Thích Đạt Ma Bảo Tú

Về mảnh đất này để trông coi và tiến hành xin thủ tục đặt đá xây dựng TVTL Chánh Thiện.

  (Tiếp tục cập nhật..)
Dưới đây là những lời chỉ dạy của Hòa Thượng Tôn Sư và Quí Thầy trong Ban Lãnh đạo. 

 

 

 

Sách Mới

Nhân kỷ niệm ngàn năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội (1010 - 2010). Ban Văn Hóa Thường Chiếu tái bản loạt sách  của Hòa Thượng Thích Nhật Quang. Ban biên tập website thuongchieu.net xin giới thiệu đến quí đọc giả gần xa.



Đức Phật trong đời

Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha. Không có loài người và trần gian thì Thế Tôn cũng sẽ không thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có thể nói trần gian, nhân loại là chất liệu tựu thành một cuộc hành trình bất diệt của đấng Như Lai. Từ đó suốt 49 năm và còn hơn thế nữa, hình bóng Thế Tôn in dài năm tháng, đi vào lòng nhân loại, vào lòng cuộc đời. Trần gian tỏa sáng, bóng tối dần tan. Như Lai là sức sống, là hơi thở nhiệm mầu hiện hữu trong chúng con và tất cả muôn sinh. Nếu không có Phật chúng con không có được ngày hôm nay. Đơn sơ, bình dị trong cuộc cộng sinh vốn dĩ lênh đênh rộn ràng.

Và như thế,

Ngày Phật đản sinh cũng là ngày trần gian vui đón đấng Từ phụ muôn thuở. Đức Phật đến với chúng con, chúng con có trong cuộc đời, cuộc đời hiển hiện dưới đáy mắt bình an của Như Lai. Hòa nhập. An thường. Để từ đây cát bụi phù du chợt dậy chợt tan trong huyễn cảnh vô thường xin một lần được trở về bầu trời không lặng. Là một chút gió, một chút mây nổi trôi điểm xuyết trong cuộc đời.

Chúng con cung kính cúi đầu trước đấng Từ phụ, xin nguyện đời đời nép mình dưới ánh từ quang, nối gót Như Lai đi suốt cuộc hành trình đến ngày tròn đầy quả giác mới vừa lòng con.



Suối Reo Rừng Trúc

 Vua Trần Nhân Tông sau khi rời bỏ ngôi vị đế vương, Ngài đã dứt khoát chọn cuộc sống sơn tăng, an nhàn tiêu sái, tự tại trên non thẳm, không gì có thể buộc ràng. Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca đã ra đời nơi đây, hòa với suối reo rừng trúc thành bản thiền ca thánh thót vi vu.

Để từ đó,

Trong từng phút giây hiện thực những trống vắng đảo điên không còn nữa. Khoảnh khắc hiện thân sống lại con người thực của mình, không thêm thắt họ tên hay bất cứ gì khác. Phút giây này thiên thu. Người xưa nói “một niệm muôn năm”, cũng nói “khoảnh khắc tròn đầy xưa nay, không hề vắng thiếu.” Đột phá vào được chỗ này rồi thì suối reo trắng gội mà tất cả hiện thành. Suối reo rừng trúc, muôn cây nội cỏ cho đến tất cả pháp giới chúng sanh, mười phương các bậc Hiền Thánh thảy đều ở trong ấy. Nhi nhiên tĩnh tại.

Ô hay! Chừ,

Đường trần thênh thang, niệm trần vô vàn ta luôn bình yên. Chừng ấy, riêng tư biền biệt vắng bóng muộn phiền, tròn đầy bi nguyện hiện tiền. Và như thế, Suối Reo Rừng Trúc nhập bước cô thôn, trời thiền rực sáng. Bài ca thành đạo của Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã cùng muôn sinh reo vang khúc diệu thường, từ muôn xưa cho đến muôn sau.



Nửa ngày của Thái Thượng Hoàng

Nỗi trăn trở lớn của con người là cuộc sống và danh dự cuộc sống. Sống thế nào có ý nghĩa, có sự nghiệp và danh dự sáng ngời. Mang một kiếp người mất quyền sống vì bị lệ thuộc vào nhiều thứ thì nỗi ray rức đắng cay mãi mãi đeo mang suốt đời. Và như thế, cuộc sống sẽ mất hết ý nghĩa, mất sức vươn lên, mất sức sống. Để rồi cuối bước phiêu lãng, không ít khách phong trần đã phải ngửa mặt ngậm từng ngụm mây trôi: “Ta trải một đời xuôi ngược, mọi thứ qua nhanh. Tuy nhiên, miếng chung đỉnh vẫn mù tăm, vẫn lao đao lận đận tự thuở nào!”

Cười nhạt một thoáng, giật mình một giấc, Điều Ngự Giác Hoàng choàng dậy trong nhung lụa mơ màng. Bất ngờ như chưa từng có, hiển hiện như chưa từng không. Thượng Hoàng Trần Nhân Tông, Ngài đã vươn lên trong khoảng đời khó vươn lên nhất, thắp sáng hiện hữu, bừng dậy tròn đầy một sức sống cho mình cùng tha nhân. “Nửa gian lều quý nửa thiên cung. Ba phiến ngói yêu hơn lầu gác”. Đã thế, có gì ngần ngại để biến chốn kinh kỳ thành núi rừng muôn thuở. An nhiên, tự tại, giải thoát hoàn toàn. Thượng Hoàng dõng dạc bước lên thẳng đầu nguồn với suối rừng chim hót, hoa cỏ xinh tươi, sống một đời ai dám buộc ràng?

Tuy nhiên như thế, Ngài đã để lại tấm gương cho hậu thế soi chung về một cuộc đời mẫu mực dung hòa. Bên thì vui đạo, bên lại vẹn đời. Ngài hoàn thành một cách tuyệt vời nếp sống ở đời vui đạo qua bài phú Cư Trần Lạc Đạo. Tất cả những gì Thượng Hoàng tâm đắc, tâm nguyện và tâm chứng trong từng hơi thở của mình đều in trên khuôn bản đó, đến nay vẫn còn lung linh sức sống đạo giữa cõi đời ô trược này. Thử bắt đầu bằng phân nửa ngày của Thượng Hoàng rồi ta sẽ thấy bình yên giữa thế gian. Ta sẽ sống và sống trong tâm đạo huy hoàng sáng rực. Từ đó, mọi ưu phiền vứt sạch, tùy duyên linh hoạt, không còn nữa những ngày buông hình bắt bóng, bôn ba xuôi ngược trong vạn nẻo tử sinh.

Trên tinh thần đó, thiền tăng Thường Chiếu đã được Hòa thượng Ân sư từng bước dìu dắt tu hành theo dấu Tổ sư Trúc Lâm. Và một lần nữa, chúng tôi đã cùng huynh đệ cúi mình học tập lại cuộc sống của Điều Ngự Giác Hoàng. Học Thượng Hoàng Trần Nhân Tông là sống thực và là cuộc sống vui tích cực, hài hòa, lắng yên trên đỉnh cao của sự thế. Ta không chạy trốn bao giờ. Ta vẫn là ta giữa tất cả mà trọn vẹn, sống động, an nhiên, siêu thoát. Nhận thấy sự lợi ích lớn lao và nét đẹp tiêu sái của Ngài qua bài phú Cư Trần Lạc Đạo, thiền sinh Thường Chiếu đã ghi lại bài giảng của chúng tôi để anh em lấy đó làm khuôn phép trên bước đường tu hành. Tùy hỷ và chân thành hòa cùng tâm nguyện của huynh đệ, mong tất cả chúng ta sẽ vui sống đạo như chính Tổ sư đã dạy, nên tôi cho ra mắt tác phẩm này.

Nửa ngày của Thái Thượng Hoàng ra đời với những lời nói mộc mạc chân tình cùng huynh đệ trong nhà, nên không sao tránh khỏi những sơ suất của nó. Mong bạn đọc chỉ nhận ý quên lời, để chúng ta cùng nhau chia sẻ chút niềm vui. Được thế, chúng tôi không ngại lời lẽ vụng về, xin được đặt bút ghi lại đôi dòng tăng quê.


 

Từ Ân của Mẹ

Công đức sinh thành của cha mẹ cao hơn núi, sâu hơn biển, không cách chi đền đáp cho cân. Mẹ sanh con bú xú bao năm, ẳm bồng từng li từng tí, chẳng những trong đời này, cho dù trải dài kiếp số vô lượng cũng không kể xiết.

Mỗi bước chân con đi qua trong cuộc đời là máu xương cha nhỏ xuống. Mỗi giây phút con buồn vui sướng khổ là trái tim mẹ bật khóc bật cười. Tâm của cha. Lòng của mẹ. Mười phương chư Phật, tất cả hiền thánh, vạn loại sinh linh thảy đêàu cảm trọng tri ân.

Nơi đây,

Ngôn từ rất cạn, ý tứ rất vơi mà thâm ân cha mẹ thì cao tột. Xưa ngài Động Sơn cất bước du phương chí cầu quyết trạch sanh tử. Mẹ Ngài đã đinh ninh dặn dò “Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có tâm quên con. Từ khi con cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường rơi lệ. Nay con lại thệ chẳng về quê, mẹ cũng tuỳ chí nguyện của con. Chỉ mong con như Tôn giả Mục Liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Nếu mẹ không như vậy e phải có tội, con cần giải quyết cho xong”. Đây không chỉ là lời dặn dò của một bà mẹ mà là di huấn của mười phương các đức Như Lai. Lời này đã trở thành một sứ mệnh cho những người con Phật.

Thế nên, đạo lộ giác ngộ giải thoát sẽ mở ra cho những ai biết quay về nguồn cội. Và niềm tin, và ước mơ không còn là viễn mộng khi cha mẹ từng bước được chính con dìu lên bến bờ an vui.

Nhân mùa Vu Lan về, đôi dòng mạo muội này hy vọng nhận được sự đồng cảm của bạn lứa anh em. Có thế một chút tâm thành nơi đây mới không hổ thẹn với đấng sanh thành.

 


 

 

 

Lịch thuyết giảng Phật pháp

Lịch thuyết giảng Phật Pháp 05/2018
TV THƯỜNG CHIẾU TVTL Trí Đức TV Linh Chiếu
 * Ngày 27/05/2018 *
8g-9g30 Thuyết giảng Phật Pháp 

Quí Thầy Giáo Thọ
10g Tụng kinh- Sám hối
12g30 Lễ Quy Y
1g30 Dạy tọa thiền
2g30 Thuyết giảng Phật Pháp
 * Ngày 06/05/2018 *
Sinh hoạt Phật Pháp tại
TVTL Trí Đức Tăng
 * Ngày 13/05/2018 *
Sinh hoạt Phật Pháp tại
TVTL Trí Đức Ni
 
Chương trình
8g-9g30 Tụng kinh- Sám hối
09g Tọa thiền
10g45 Thọ trai
1g30 Thuyết giảng Phật Pháp

* Ngày 05/05/2018 *
Ni Sư Hạnh Chiếu - giảng

Chương trình tập tu 1 ngày

8g-9g30 Tụng kinh- Sám hối
09g Tọa thiền
10g45 Thọ trai
1g30 Thuyết giảng Phật Pháp
TVTL CHÁNH GIÁC    
 * Ngày 20/05/2018 *

Thuyết giảng Phật Pháp

TT Thích Thông Phương

8g Sám hối 6 căn
09g15 Thuyết giảng Phật Pháp   
13g20 Tọa Thiền
14g30 Thuyết giảng Phật Pháp
15g30 Lễ Quy Y
   

(Tiếp tục cập nhật..)

Giới thiệu ảnh

Một số hình do Phật tử Tuệ Pháp chụp tại TV Thường Chiếu,

Nhân dịp về dự giổ Tổ lần thứ 37 cố HT Thiện Hoa


Hình ảnh giổ Tổ lần thứ 37 Cố Hòa thượng Thiện Hoa


Chúng điệu La Vân tại Thiền viện Thường Chiếu

Tiểu sử Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa

LƯỢC THUẬT TIỂU SỬ
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA

I.- THẾ TỘC:

Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy, quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.

Sau khi thân phụ quá cố, Hòa thượng theo thân mẫu đi chùa Phước Hậu, làng Đông Hậu, quận Trà Ôn làm lễ cầu siêu trong 7 tuần thất. Duyên xưa gặp lại, mặc dù lúc ấy Hòa thượng chưa biết đạo lý là gì, mà nằn nằn quyết một đòi ở chùa. Bởi gia đình mộ đạo, nên cụ bà không từ chối nguyện lành của con. Năm ấy Hòa thượng vừa lên 7 tuổi, xuất gia tại chùa Phước Hậu. Sau đó, Hòa thượng được gởi đến chùa Đông Phước, làng Đông Thành, quận Cái Vồn, theo học với tổ Khánh Anh.

II. - THỜI HỌC ĐẠO:

a) Học các trường gia giáo:

Hòa thượng cầu pháp với tổ Khánh Anh được hiệu là Hoàn Tuyên. Từ đó, Tổ được mời dạy những trường gia giáo nơi nào, Hòa thượng đều theo đó học tập, từ chùa Đông Phước lần lượt đến các nơi, sau cùng là chùa Long An. Năm 1931, tổ Khánh Anh lãnh chùa Long An ở Đồng Đế Trà Ôn và khai gia giáo nơi đây. Năm ấy, Hòa thượng đã 14 tuổi, nhập chúng tu học tại chùa này 3 năm.

b) Phật học đường Lưỡng Xuyên:

Đầu mùa hạ năm 1935, Phật học đường Lưỡng Xuyên khai giảng, Hòa thượng xin nhập học tại đây, lúc đó được 17 tuổi và ngay năm ấy, Hòa thượng thọ giới Sa-di. Từ đây Hòa thượng chính thức vào Phật học đường sống theo nếp mẫu mực đạm bạc của đời Tăng sinh. Sau 3 năm mãn lớp Sơ đẳng nơi đây, Tăng sinh muốn tiến lên phải vận động ra Huế học. Với chí hiếu học và óc cầu tiến, Hòa thượng nài xin Ban giám đốc Phật học đường Lưỡng Xuyên chấp nhận giới thiệu, và vận động thí chủ ủng hộ tài chính. Kết quả Hòa thượng được mãn nguyện, năm 1938 Ngài ra Huế học, lúc ấy 20 tuổi.

c) Phật học đường Báo Quốc:

Sau khi ra Huế, quý Ngài dự học tại Phật học đường Tây Thiên hai năm. Kế đó vào Quy Nhơn ở chùa Long Khánh để đến học Phật pháp với tổ Phước Huệ ở chùa Thập Tháp hết một năm tròn. Các Ngài lại trở ra Huế dự học tại Phật học đường Báo Quốc ngót bốn năm. Sau trường Báo Quốc dời đến tòng lâm Kim Sơn năm 1945. Lớp học tại đây vừa mãn thì chiến tranh dồn tới. Trường Kim Sơn không duy trì được, nên Hội An Nam Phật Học ủy thác cho quý Hòa thượng Trí Tịnh và Thiện Hoa v.v... mang một số học Tăng vào Nam. Thế là, ngót tám năm dài (1938 - 1945), quý Hòa thượng chịu nhọc nhằn cần mẫn học tập ở đất Thần kinh. Khi trở về mang một hoài bão "Hoằng pháp lợi sinh", để rồi miền Nam bừng sáng do các Ngài mồi ngọn đuốc từ chốn cố đô.

III.- THỜI HÀNH ĐẠO:

1) Khai giảng Phật Học Đường Phật Quang:

Năm 1945 Hòa thượng hợp tác cùng Hòa thượng Trí Tịnh khai giảng Phật học đường Phật Quang tại rạch Bang Chang, xã Thiện Mỹ, quận Trà Ôn. Số Tăng sinh đến dự học trên 30 vị. Năm 29 tuổi Hòa thượng thọ giới Tỳ kheo và Bồ-tát tại giới đàn Kim Huê Sa Đéc.

2) Cộng tác Phật Học Đường Nam Việt Ấn Quang:

Đầu mùa Xuân năm 1953, Hòa thượng cùng tám đệ tử mang hành lý đến Phật học đường Nam Việt nhằm ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch. Sau cuộc họp của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, quý Hòa thượng đã đồng tình cử Hòa thượng giữ chức vụ Trưởng Ban giáo dục Giáo Hội Tăng Già Nam Việt kiêm Đốc giáo PHĐNV và chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.

a) Về phần Giáo Dục:

Với trách nhiệm đốc giáo PHĐNV, Hòa thượng đã tận tâm giảng dạy cho hai lớp Cao đẳng và Trung đẳng nơi đây. Đồng thời, Hòa thượng cũng dạy lớp Trung đẳng Ni chúng mở tại chùa Từ Nghiêm, sau dời về Phật học Ni trường Dược Sư.

Kết quả, hai lớp ở PHĐNV tại chùa Ấn Quang đã lần lượt ra trường. Đồâng thời Ni trường Dược Sư cũng đã đào tạo nên một số Ni chúng khả dĩ gánh vác được Phật sự đáng kể Đến năm 1957 Hòa thượng lại chủ xướng mở những khóa huấn luyện trụ trì lấy tên là Như Lai Sứ Giả. Tăng giới đặt tại chùa Pháp Hội, Ni giới đặt tại chùa Dược Sư.

Với trách nhiệm Trưởng Ban Giáo Dục trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Hòa thượng đã khuyến khích mở trường Phật học ở các tỉnh như trường Phật học tại chùa Bình An Long Xuyên (1956), trường Phước Hòa ở Vĩnh Bình, trường Giác Sanh ở Phú Thọ, trường Biên Hòa và trường Phật Ân ở Mỹ Tho v.v...

Có thể nói hầu hết Tăng Ni miền Nam đương thời đều chịu ân giáo dục của Hòa thượng, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.

b) Về Hoằng Pháp:

Hòa thượng nhận chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và Hội Phật Học Nam Việt năm 1953. Đích thân Hòa thượng huấn luyện Tăng Ni sinh tại các Phật học đường để trở thành những giảng sư thật sự. Đồng thời, Hòa thượng cũng huấn luyện các vị trụ trì Tăng Ni đều có thể thành giảng viên trên lãnh vực của mình và đi diễn giảng các nơi khác. Chẳng những đào tạo Tăng Ni, Hòa thượng còn huấn luyện số cư sĩ đã chịu khó theo học các lớp giảng tại chùa Ấn Quang, khả dĩ đi diễn giảng các nơi được. Quả thật sinh khí đã len vào mọi tâm hồn Phật tử, khiến họ hăng say học Phật. Cứ như thế mãi ngót tám năm trời.

c) Trước tác và phiên dịch:

Từ năm 1953 đến năm 1965, Hòa thượng soạn xong 12 khóa Phật Học Phổ Thông, hay gọi là Cây Thang Giáo Lý. Bản Đồ Tu Phật, Duy Thức Học, tám quyển sách quý. Về phiên dịch, Hòa thượng đã dịch được một số kinh điển Đại thừa như Lăng Nghiêm, Viên Giác, Kim Cang…

Có thể nói sự nghiệp quan trọng nhất trong đời của Hòa thượng, là những tác phẩm và dịch phẩm do nhà xuất bản Hương Đạo ấn hành. Để tưởng niệm lại công đức của Tổ sư, chúng ta cùng nhau lắng lòng ôn lại những lời dạy của Ngài qua một trích đoạn trong bài Nhân Quả sau đây:

Định nghĩa Nhân quả: Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Nhân là hạt, quả là trái do hạt ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, quả là sự thành hình của năng lực phát động ấy. Nhân quả là một định luật tất nhiên, có tương quan mật thiết với nhau và chi phối tất cả mọi sự mọi vật.

Để có một quan niệm rõ ràng về luật nhân quả, chúng ta hãy tuần tự phân tích hành tướng của nhân quả trong các chủng loại nằm trong vũ trụ:

1. Nhân quả trong những vật vô tri vô giác: Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.

2. Nhân quả trong các loài thực vật: Hạt cam thì sanh cây cam, cay cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh cây ớt, cây ớt thì sanh trái ớt. Nói một cách tổng quát giống ngọt thì sanh quả ngọt, giống chua thì sanh quả chua, giống đắng thì sanh quả đắng, giống nào thì sanh quả ấy.

3. Nhân quả trong các loài động vật: Loài chim sanh trứng nên ta gọi trứng là nhân. Khi ấp nở thành con là quả. Con chim ấy trở lại làm nhân, sanh ra trứng là quả. Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên trở lại làm nhân, sanh ra con là quả.

4. Nhân quả nơi con người:

a- Về phương diện vật chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ khí huyết của cha mẹ và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả và cứ tiếp nối vậy mãi. Nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.

b- Về phương diện tinh thần: Những từ tưởng và hành vi trong quá khứ tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống tinh thần trong hiện tại. Tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình, nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này làm nhân để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả.

Phương diện tinh thần này hay nói theo danh từ nhà Phật, phương diện nội tâm là phần quan trọng. Vậy chúng ta phải đặc biệt chú ý đến hành tướng của nó.

A. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt.

1- Tham: Thấy tiền của người nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp hoặc giết hại người là nhân, bị chủ đánh đập hoặc chém giết phải mang tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những tra tấn đau khổ là quả.

2. Sân: Người quá nóng giận đánh đập vợ con, phá hại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân. Khi hết giạn, đau đớn nhìn thấy vợ con bệnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.

3. Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa trường không còn biết sự hay dở, phải trái, đó là nhân. Làm cho gia đình lủng củng, thân thể suy nhược, trí tuệ u ám là quả.

4. Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc này đến việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân. Kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng, đó là quả.

5. Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp nhân phẩm người chung quanh là nhân, bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẽ loi, cô độc là quả.

6. Nghiện rượu chè: Chung nhau tiền bạc ăn nhậu cho thỏa thích là nhân. Đến lúc say sưa, chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngã, nhiều khi rầy rà chém giết nhau, làm nhiều điều tội lỗi, phải bị phạt và và tù tội là quả.

7. Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm suốt tháng theo con bài lá bạc là nhân. Đến lúc hết của, nhà tan, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau là quả.

B. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt.

Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa, tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả xán lạn, vinh quang và an vui cũng như thế ấy.

Người không có tánh tham lam, bỏn xẻn thì tất không bị của tiền trói buộc, tất cả được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được sống trong cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm. Người không si mê theo sắc dục, tất được gia đình kính nể, vợ con quí chuộng, trí tuệ sáng suốt, thân thể tráng kiện. Người không hay ngờ vực, có đức tin thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy và dễ thành tựu trong đường đời. Người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm nỡ tiếp đón, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến. Người không rượu chè cờ bạc thì không đến nổi túng thiếu, bà con quen biết kính nể, yêu vì… Những điều trên đây tưởng không cần phải nói nhiều, quí độc giả cũng thừa biết. Hằng ngày quanh chúng ta những cảnh tượng nhân và quả diễn ra không ngớt.

Nói một cách tổng quát, về phương diện vật chất cũng như tinh thần, người ta gieo thứ gì thì gặt thứ ấy. Khi chúng ta đã biết rõ luật nhân quả, nhưng nếu không đem nó ra ứng dụng trong đời sống của chúng ta, thì sự hiểu biết ấy trở thành vô ích. Cho nên chúng ta đã hiểu rõ thì phải cố gắng thực hành cho được bài học ấy trong mọi trường hợp. Nếu chúng ta biết đem luật nhân quả làm một phương châm hành động và suy luận, thì chúng ta sẽ thu lượm được rất nhiều lợi ích, cụ thể là:

- Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền.

- Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người.

- Luật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc.

Chúng ta thấy rõ những ích lợi do sự hiểu biết luật nhân quả đem lại rồi, nên cần phải biết triệt để khai thác nó vào đời sống. Trong mọi hành động của chúng ta, bao giờ cũng nên nghĩ đến quả mà trồng nhân. Những người không nghĩ đến quả mà cứ gieo nhân bừa bãi, thế nào cũng gặt nhiều tai họa, gây tạo cho mình nhiều điều phiền phức, có khi làm ung độc cả cuộc đời, cả sự sống. Chỉ có những người nông nổi liều lĩnh mới không nghĩ đến ngày mai, mới sống qua ngày. Chứ ngững người sáng suốt làm việc có kế hoạch khôn ngoan, thì bao giờ cũng nhắm cái đích rồi mới đi tới, hình dung rõ ràng cái quả rồi mới trồng nhân.

Tóm lại, nếu chúng ta biết đem bài học nhân quả áp dụng trong tất cả mọi công việc hàng ngày của đời mình, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta mỗi ngày cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng và từ địa vị người vượt lên địa vị Thánh hiền, không phải là điều không làm được.

V.- VIÊN TỊCH:

Hòa thượng khởi bệnh từ tối đêm 17 tháng 11 năm Canh Tý, sau ngày lễ vía Đức Phật A Di Đà, Ngài được đưa vào bệnh viện Đồn Đất điều trị. Bác sĩ cho biết bệnh của Hòa thượng cần phải được giải phẫu. Hòa thượng thường nói với các đệ tử đến thăm viếng: "Nếu kỳ đau này tôi phải chết, tôi rất hài lòng, vì đối với sự hoằng hóa tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Đối với Đạo Pháp tôi đã gánh vác được một giai đoạn khó khăn".

Sau khi giải phẫu, bệnh của Hòa thượng càng ngày càng nhẹ, ai cũng tin rằng không bao lâu Hòa thượng sẽ bình phục trở về chùa. Một hôm, Hòa thượng Thiện Hòa vào thăm Hòa thượng. Tuy cảm thấy bệnh tình đã nhẹ rồi, mà Hòa thượng vẫn dặn dò mọi việc, cho đến kinh sách hiện còn, đều giao cả cho Hòa thượng Thiện Hòa. Thấy điều lạ, Hòa thượng nói: "Nằm ít hôm nữa bệnh lành rồi về, nói chi chuyện ấy".

Bất thần, ngày 17 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng trở bệnh. Đến đêm 19 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng thấy mệt, biết mình không qua khỏi nên gọi các môn đệ đến bảo: "Các con niệm Phật cho Thầy vãng sanh, Thầy mệt quá rồi". Từ giờ phút ấy tiếng niệm Phật đều đều vang lên trong gian phòng hồi sinh. Từ đó Hòa thượng lặng lẽ dần dần đến 06 giờ 5 phút, sau một hơi thở dài rồi im lìm theo Phật!

Hòa thượng đã an lành viên tịch vào sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, thọ 55 tuổi và được 26 tuổi hạ.

VI.- NHẬN XÉT:

Hòa thượng Thiện Hoa là một tấm gương sáng cho hàng Tăng sĩ soi chung. Hòa thượng có những đức tánh cao quý, ai được sống gần Hòa thượng đều cảm mến.

Mặc dù là người xuất gia, nhưng Hòa thượng vẫn không quên chữ hiếu. Lúc Hòa thượng còn dạy học tại chùa Phật Quang, cụ bà cũng lập am gần đó. Mỗi khi cụ bà bệnh, đích thân Hòa thượng chích thuốc, hoặc chẩn mạch ra toa hốt thuốc. Khi cụ bà tịch, Hòa thượng gắng hết sức mình, cúng dường Tăng Ni, để cầu siêu cho mẹ. Quyển sách Bài Học Ngàn Vàng của Hòa thượng viết ra, cũng nguyện đem công đức đó hồi hướng cho cụ bà.

Về ân nghĩa, Hòa thượng thọ dụng của ai thì không bao giờ quên. Vì thế mỗi khi dạy đồ chúng, Hòa thượng thường nhắc lại công ơn của quý Hòa thượng xưa đã dạy bảo cho Ngài. Hòa thượng lúc nào cũng sẵn sàng một tâm niệm bao dung hòa ái. Ít ai thấy được trên khuôn mặt của Ngài lộ vẻ bất bình, cũng ít ai nghe được nơi Ngài thốt ra những lời bực nhọc. Dù hạng người nào đến đều được Hòa thượng tiếp chuyện một cách vui vẻ từ tốn. Nếu có ai bực tức phê bình, giữa vị này với vị nọ, Hòa thượng đều tìm cách xoa dịu, hòa giải. Hòa thượng lúc nào cũng muốn hòa nhau trong tình Đạo, không chịu thấy sự rạn nứt chia ly.
Tuy Hòa thượng thích nhu hòa mà cương nghị. Đường lối của Hòa thượng và của Giáo hội đã vạch ra, dù gặp khó khăn đến mấy, cũng vẫn từ từ mà tiến tới. Tuy khiêm tốn mà vẫn bất khuất, tuy nhu hòa mà lại vững vàng. Đó là lập trường cố hữu của Hòa thượng.

Cuộc đời của Hòa thượng hy sinh trọn vẹn cho Đạo pháp. Từ lúc lớn khôn cho đến ngày theo Phật, lúc nào Hòa thượng cũng chỉ biết lo cho Đạo và làm việc cho Đạo.

Hòa thượng xong việc ra đi, nhưng để lại cho hàng Giáo phẩm trong Giáo hội bao nhiêu niềm mến tiếc. Tăng Ni cảm thấy bơ vơ hết chỗ tựa nương, hàng Phật tử mất đi một bậc Thầy hiền kính ái. Ngôi nhà Đạo pháp đã thiếu đi một cây thạch trụ chịu đựng!

Giờ đây trước tôn ảnh của Hòa thượng, toàn thể hàng môn hạ đệ tử, đệ tôn chúng con nguyện một lòng vâng theo di huấn của Hòa thượng, xin suốt đời nỗ lực tu học noi gương Hòa thượng, làm tròn sứ mệnh của người con Phật, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, ngõ hậu đền đáp phần nào công ơn trời bể của Thầy Tổ.