CUNG NGHINH TƯỢNG PHẬT-TVTL CHÁNH GIÁC
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ Sáu, 18 Tháng mười 2013 09:06
- Viết bởi Super User
Vào lúc 22g30, ngày 12 tháng 10 năm 2010 (nhằm mùng 8 tháng 09 năm Quý Tỵ), sau gần 6 tháng thực hiện, tôn tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã được vận chuyển về Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác tỉnh Tiền Giang trong niềm hân hoan dâng tràn của Tăng Ni và đồng bào Phật tử gần xa.
Ngay sáng hôm sau, việc lắp đặt đã được tiến hành dưới sự chủ trì chứng minh của thượng tọa trụ trì thiền viện. Đến 16g ngày 13/10/2013, việc lắp đặt đã hoàn tất một cách an ổn, tốt đẹp. Tôn tượng Đức Bổn Sư đã an vị trên tòa kim cang, thiền viện đã sắn sàng cho lễ an vị vào ngày 20/10/2013, tức là ngày 16 tháng 9 năm Quý Tỵ.
Dưới đây là vài hình ảnh về quá trình vận chuyển và lắp đặt tượng.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
( Theo email Chánh Lạc Khiêm )
Thiền Tông Việt Nam trên đường phục hưng & hằng hóa
- Chi tiết
- Được đăng ngày Chủ Nhật, 29 Tháng chín 2013 09:56
- Viết bởi Super User
|
LỜI GIỚI THIỆU |
|||
|
THIỀN TÔNG VIỆT NAM Trên đường phục hưng & hoằng hóa Viết về Người, Hòa thượng thượng Thanh hạ Từ, bậc ân sư khả kính của tất cả môn hạ đệ tử trong Tông môn thuộc thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Viết về thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX được khôi phục và hoằng hóa bởi một thiền sư xuất thân từ miền sông nước Hậu Giang. Đó là nội dung tập sách do Đại Đức Thích Đạt-ma Quán Hiền đã khổ công biên tập mà quý độc giả đang có trên tay. Bằng bút pháp nhẹ nhàng thi vị nhưng không kém phần cuốn hút, biên giả khiến đọc thích thú tiếp tục giở sang trang kế, mặc dù đây là tác phẩm thuộc loại biên khảo rất dễ gây cảm giác nhàm chán. Đi vào tập sách, bên cạnh những kiến trúc vật thể khô khan như thiền đường, nhà khách, tăng đường, còn có khoảng không gian trời nước xanh mát bao la, khiến ta ngỡ như đi giữa rừng thiền: Tất cả toàn thông, muôn lối hài hòa nhi nhiên. Không tiếng động, không mô hình, không vướng mắc. Uyên nguyên như thế, tỏa sáng trầm hùng như thế. Từ đây sức sống tuôn trào vô tận, hạnh phúc an lạc vô biên. Kẻ đứng ngoài kia với nắng gió âm thanh, chưa một lần ngoảnh mặt làm sao biết được ? Ai đã nghe tiếng thác vọng rừng thiêng, ai đã đi giữa nước mắt nụ cười, thử một lần dừng lại, nhìn xem làm gì ? Ở đây, thanh thanh rừng già, thanh thanh nhựa sống chưa thành vóc, chẳng nên hình. Dịu mà thoảng, nhẹ mà tỏa, ngan ngát hương định, hương tuệ, hương giải thoát. Rừng thiền rắc lá vi vu sao không thành tiếng động, gió mát thanh lương sao chẳng gợi bóng trúc la đà ? Có phải tâm vật nhất như, động tỉnh bặt dấu ? Chà chà ! chớ để môi mép khua động hồn rừng, làm lụy đến muôn đời. Thôi thì, Hãy thử một lần bước vào. Đây khung trời không cấm địa, đầy ắp trăng sao tỏa sáng, chẳng ngăn ngại những bước chân lữ thứ quay về. Thiền viện Thường chiếu, 15-04-2013 |
|||
( BBT web thuongchieu.net vừa được ĐĐ Quán Hiền tặng quyển "Thiền Tông Việt Nam trên đường phục hưng và hoằng hóa, kính giới thiệu đến quí đọc giả gần xa )
HÀNH TRẠNG THIỀN SƯ TRUNG HOA
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ năm, 04 Tháng bẩy 2013 09:42
- Viết bởi Super User
HÀNH TRẠNG THIỀN SƯ TRUNG HOA
HT Thích Nhật Quang giảng giải
![]()
.......... Tác phẩm Thiền sư Trung Hoa gồm các tập I, II, III là tuyển tập hành trạng chư vị thiền tổ Trung Quốc do thầy tôi, Hòa thượng thiền sư thượng Thanh hạ Từ soạn dịch. Chữ “hành trạng” nghĩa là nói về cuộc đời cũng như sinh hoạt tu học của quý ngài. Theo cú pháp thời xưa, người Trung Hoa dịch chữ “hành trạng” là công hạnh và tất cả sinh hoạt.
Sử liệu đã ghi chép rõ ràng, đầy đủ hành trạng từ đức Phật, các vị thánh tổ, lịch đại tổ sư, thiện hữu tri thức cho đến thời đại của chúng ta. Một dọc dài từ thượng tổ Ma-ha Ca-diếp ở Ấn Độ cho tới Sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma ở Trung Hoa, rồi tới các bậc danh tăng thời của chúng ta đều là những tấm gương sáng cho người cầu học Phật pháp. Trong tác phẩm “Sử 33 vị Tổ thiền tông Ấn-Hoa”, có nói hành trạng của sáu vị thủy tổ Trung Hoa: Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng. Các ngài là những bậc có chìa khóa mở kho tàng Phật pháp, mang đại nguyện đi vào đời, mở cửa Niết-bàn cho tất cả chúng sanh bước vào. Chúng ta không thể diễn tả, trình bày hay dùng bất cứ phương tiện gì để biểu trưng hết những công đức, việc làm vĩ đại, hành trạng của đức Thế Tôn cũng như các vị Bồ-tát, liệt vị Tổ sư.
Chư vị Bồ-tát thị hiện nơi cõi Ta bà với tâm đại từ bi cứu độ chúng sanh, nơi nào cần các ngài đều có mặt. Do đó trong đạo tràng của chúng ta luôn có sự thị hiện của vô lượng Bồ-tát và thánh nhân. Bởi không thấy được sự hiện diện của các ngài cho nên chúng ta mới siêng tu. Nếu thấy thì chắc rằng chúng ta sẽ cầu xin này kia và không chịu tu. Do đó các ngài thường thị hiện mà ẩn danh. Người tu thiền phải dẹp sạch sự ỷ lại mới nhập thiền. Bởi còn trông chờ, ỷ lại, mong ngóng thì không bao giờ gặp Phật, Bồ-tát. Chừng nào dẹp sạch hết những điều đó, liều mạng sống, liều mạng tu tập, hoan hỷ, nhẫn nại trả tất cả nợ nần cũ thì Phật, Bồ-tát hiển hiện............
Phật tử phát tâm ấn tống sách cúng dường lễ vu lan xin liên lạc:
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
ĐT: 061 8602 008 hoặc 061 3841 071 ( HT Trụ trì Thường Chiếu)
Hình ảnh TV Thường Chiếu
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ bảy, 11 Tháng năm 2013 02:05
- Viết bởi Super User
|
Hỉnh ảnh Thiền viện Thường Chiếu |
|
Trang hình ảnh này do anh ĐÀO QUANG QUYẾT - Công ty Wonav Corp BBT xin cảm niệm công đức của anh Quyết và tập thể anh em đã thực hiện bộ ảnh này. |
TÁNH HỶ XẢ
- Chi tiết
- Được đăng ngày Chủ Nhật, 03 Tháng Hai 2013 00:02
- Viết bởi chanhdao
HÒA THƯỢNG TỔ SƯ GIẢNG VỀ TÁNH HỶ XẢ
Lễ giỗ Tổ lần thứ 40
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Cung kính ngưỡng bạch Giác linh Tổ sư,
Cung kính ngưỡng bạch Hòa thượng Ân sư,
Hôm nay Lễ Giỗ Tổ lần thứ 40, để tưởng nhớ đến thâm ân giáo dưỡng và công đức huấn dục của Tổ sư, chúng con trích bài giảng về Hỷ xả của Hòa thượng Tổ sư, kính nguyện Giác linh Hòa thượng Tổ sư chứng giám.
Hỷ của đạo Phật không có nghĩa là vui đùa một cách vô tư, không phải là không cho cái gì là quan trọng, không phải là phớt qua tất cả, để được vui cười một cách ồ ạt, sôi nổi rồi ngày mai ra sao thì ra. Hỷ đây không phải là buông thả cõi lòng để vui theo những cảnh dục lạc ở đời, cũng không phải là tán thành, tùy hỷ để cho người ta làm quấy, làm ác.
Hỷ của đạo Phật là vui theo những điều chân thiện mỹ, là vui vì thấy người khác tạo nhân lành, được quả tốt, là vui vì mình làm cho người và chúng sanh được vui. Cái vui ở đây phát sinh từ lòng từ bi, bình đẳng, chứ không phải vì một lý do ích kỷ nào khác, cái vui bao la rộng lớn toàn thiện, có tánh cách giải thoát, thanh tịnh, chứ không phải hẹp hòi thiển cận. Cái xả ở đây cũng không phải chỉ là sự tha thứ, khoan dung đối với những gì đã làm ta đau khổ, không phải chỉ là sự vứt bỏ ra khỏi lòng ta những bực bội, xót đau mà người khác đã gieo vào lòng ta, không phải chỉ là bỏ qua những gì trái tai gai mắt đối với ta. Xả ở đây có tánh cách tuyệt đối, nghĩa là bỏ ra ngoài tất cả, không chấp trước một cái gì, dù là vật chất hay tinh thần, dù là xấu xa hay tốt đẹp, dù là ở địa vị phàm phu hay đã chứng được quả Thánh. Nếu còn chấp trước nắm giữ một cái gì là còn cái ngã, mà còn cái ngã là còn tất cả, nghĩa là còn chưa giải thoát.
Nói như thế không có nghĩa là người tu hành phải nhắm mắt bịt tai để không thấy, không nghe gì cả, không phải là dửng dưng trước mọi sự mọi vật như đá, như gỗ, không phải là không làm gì cả, đứng khoanh tay như tượng đá. Không! Người theo hạnh xả vẫn thấy, vẫn nghe, nhưng không đắm sắc, mê thanh, không để cho lòng mình vương vấn vào cái thấy cái nghe ấy. Người theo hạnh xả vẫn làm việc, làm việc nhiều hơn ai cả, nhưng vẫn không thấy mình có làm gì, nhất là khi làm được những việc có kết quả tốt đẹp.
Nếu so sánh với tánh nhẫn nhục thì hỷ xả còn cao hơn một bậc. Tánh nhẫn nhục làm cho ta không phát ra nóng giận, bực tức, làm cho ta có sức chịu đựng những khổ nhục, đau xót ở đời, nó cản ngăn không cho cái xấu phát ra. Còn tánh hỷ xả làm cho lòng ta nhẹ nhàng thư thái, phát ra cái vui hồn nhiên trong sáng. Nhẫn nhục như người đang gánh một gánh nặng, phải luôn luôn cố gắng đi cho đến đích. Hỷ xả như người đã trút được gánh nặng, thân xác nhẹ nhàng, tâm hồn khoan khoái, vui vẻ, không bận tâm về một điều gì nữa. Nhẫn nhục như người điều phục voi dữ, luôn luôn phải đề phòng lao tâm khổ trí, để cho nó khỏi phá phách. Hỷ xả như người cỡi ngựa hay đã thuần, có thể thảnh thơi ngao du đây đó, mà không cần chú ý đến con vật mình đang cỡi.
Do đó người có tánh hỷ xả, bao giờ nét mặt cũng vui tươi, nụ cười luôn luôn nở rộng trên môi, tâm hồn sáng sủa, phóng khoáng như một gian phòng rộng, mà tất cả các cửa đều mở toang cho ánh sáng và không khí tràn vào. Người hỷ xả luôn luôn được cảm mến và được tiếp đón nồng hậu khắp nơi, vì đã gây được tín nhiệm và đem không khí hòa vui lại cho mọi người.
Riêng đối với mình, người có tánh hỷ xả không bao giờ bị phiền não quấy nhiễu, không có thù địch ngăn ngại, được nhiều trợ duyên cho nên dễ tiến bước trên đường đạo và mau chứng quả Bồ-đề.
Hình ảnh đức Bổn sư đã được người đời sau tạc lại trong các pho tượng với nụ cười hiền hòa, thanh thoát ở trên môi. Nụ cười ấy tượng trưng cho lòng từ bi, hỷ xả của Ngài. Một pho tượng không có được nụ cười ấy cũng như không có được đôi mắt tượng trưng cho trí tuệ, pho tượng ấy chưa phải là tượng đức Bổn Sư Thích Ca, vì nó thiếu mất những đức tánh căn bản đã đưa Ngài lên địa vị Phật, và đã làm cho người đời sau phân biệt được Ngài với các vị Giáo chủ khác.
Về vật chất, đức Phật trước khi xuất gia đã hoan hỷ xả bỏ những gì quý báu nhất mà người phàm phu ít có thể được: ngai vàng, điện các, ăn ngon, mặc ấm, ngọc ngà, châu báu, vợ đẹp, con ngoan…
Về tinh thần, Ngài xả bỏ tất cả những gì xấu xa mà con người có thể có, do vô minh, di truyền, tập quán, nghiệp báo gây nên. Ngài bỏ qua tất cả những ác ý và hành động nhiễu hại Ngài, của Đề-bà-đạt-đa, A-xà-thế, Vô Não, cô gái ngoại đạo độn bụng vu oan cho Ngài… Ngài đã không chấp nhứt, buồn phiền mà còn thương xót tế độ cho họ.
Ngài xả bỏ luôn tất cả những kết quả tốt đẹp mà Ngài đã thành tựu, làm tất cả mọi việc quý báu trên đời mà vẫn tự thấy không làm gì cả, với một nụ cười trên môi, một nỗi thanh thoát trong lòng. Ngài vui cái vui của người khác, vui khi thấy họ tiến nhanh trên đường giải thoát, vui như cái vui của người mẹ khi thấy con nhỏ bập bẹ nói những tiếng đầu tiên, hay bước những bước chập chững. Cái vui của Ngài không phân biệt thân sơ, không có từng bậc cao thấp, thoát ra ngoài vòng bỉ thử, bao giờ cũng hồn nhiên trong sáng. Nỗi vui ấy đã được thể hiện trong nụ cười bất tận ở trên đôi môi qua những pho tượng của Ngài, và đã làm cho tất cả Phật giáo đồ trên thế giới cảm mến, kính yêu…
Người Phật tử phải dưỡng tánh hỷ xả thế nào trong đời sống hằng ngày? Trước tiên, trong phạm vi thấp nhất, người Phật tử phải tập tánh khoan hòa độ lượng, biết tha thứ những lỗi lầm của người chung quanh. Đừng ghi vào lòng, đừng chấp nệ những lời nói, cử chỉ, hành động không đẹp đẽ của người khác đối với ta. Hãy nghĩ rằng đó là những điều sơ xuất vì vô tình hay vụng về mà ra. Nếu ta có bằng chứng về lòng xấu xa, độc ác của người muốn hại ta đi nữa, thì cũng nên tự nhủ rằng những người ấy đáng thương hơn đáng trách, vì họ thiếu sáng suốt, thiếu căn lành, và sự thiếu thốn ấy sẽ đem lại cho đời họ nhiều đau khổ lắm rồi, ta không nên làm cho họ đau khổ hơn nữa. Nếu ta ôm ấp những nỗi bực tức oán thù thì ta chỉ tạo cho ta thêm nhiều đau khổ, như người bị bắn trúng mũi tên độc mà không chịu rút ra. Ta sẽ mất ăn mất ngủ, mất thì giờ, mất bình tĩnh trong công việc làm ăn, tu học. Ta sẽ ung độc đời ta một cách khờ dại, vô ích và ung độc luôn cả gia đình, xã hội, trong ấy ta đang sống nữa.
Tiến lên một tầng cao hơn, ta phải tập biến dần tánh thù ghét ra thành tánh hoan hỷ. Thấy người khác thành công, ta không ganh ghét, dù đó là kẻ đã làm cho ta đau khổ. Trái lại, ta còn vui mừng với họ, hoan hỷ tán thán sự thành công của họ, nhất là khi sự thành công ấy tiến về nẻo thiện, hướng đến mục đích giải thoát.
Tiến lên một tầng cao hơn nữa, ta phải tập xả bỏ những gì ta quý báu dù là vật chất hay tinh thần. Có bỏ bớt hành lý nặng nề, ta mới đi xa được, mới lên cao được. Nếu ta ôm giữ một cái gì, thì cái ấy chỉ làm vướng chân ta, níu ta lại. Trong đời, ta thường thấy những người giàu có bao nhiêu, chức phận bao nhiêu, lại bận bịu vương vấn bấy nhiêu, như chim vướng phải lưới, càng gỡ càng mắc thêm.
Về phương diện tu hành cũng thế, những người chứng được quả này quả khác, mà chấp chặt quả ấy, thỏa mãn với sự thành công của mình, những người cố chấp như thế, không bao giờ tiến xa được. Cho nên người Phật tử phải tập xả dần, xả tất cả. Con tằm sở dĩ thành bướm bay lượn đó đây, vì nó đã rời bỏ cái kén, dù đó là một cái kén bằng tơ vàng óng ánh, ấm áp, đẹp đẽ mịn màng vô cùng. Cùng một nghĩa ấy, đức Phật có dạy: “Niệm mà không chấp có niệm mới là niệm, hành mà không chấp có hành mới là hành, nói mà không chấp có nói mới là nói, tu mà không chấp có tu mới là tu” (Kinh 42 chương).
Nhưng xả mà buồn rầu thì tốt hơn đừng xả. Xả không phải là một sự hy sinh thường làm cho người hy sinh phải đau khổ. Xả mà còn tiếc nuối, còn than thở cho cái mà mình đã bỏ đi, xả với bộ mặt buồn rầu, than khóc như kẻ đi đưa đám ma, xả như thế nào có ích gì!
Xả phải đi đôi với hỷ. Phải xả với vẻ mặt hân hoan, vui mừng như người tù khi tháo gỡ được xiềng xích. Tu sung sướng, vui mừng vì thấy mình nhẹ nhàng, khoan khoái hơn trước. Xả là một cử chỉ tháo gỡ để được giải thoát, cho nên ta vui mừng, chứ không phải là một sự trói buộc mà phải khóc than.
Phát triển được tánh hỷ xả như thế, tức là dưỡng tánh hỷ xả của Phật mà ta đã sẵn có, ở trạng thái tiềm tàng trong ta.
Giờ đây trước án tiền giác linh của cố Hòa thượng, toàn thể hàng môn hạ pháp tử, pháp tôn chúng con nguyện một lòng vâng theo di huấn của Hòa thượng, xin suốt đời nỗ lực tu học, noi gương Hòa thượng làm tròn sứ mệnh của người con Phật, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, ngõ hầu đền đáp phần nào công đức sâu dày của Thầy Tổ.
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
THANH TỪ TOÀN TẬP
- Chi tiết
- Được đăng ngày Chủ Nhật, 27 Tháng một 2013 08:00
- Viết bởi chanhdao
![]() |
|
LỜI DẪN
Hòa thượng tôn sư thượng Thanh hạ Từ khi mới vào đạo cho đến hôm nay đã lấy thiền làm mạng sống, nuôi dưỡng công phu qua những giai đoạn hành thiền nghiêm cẩn. Cuối cùng ngài thấu tỏ được lời Phật ý Tổ bằng chính sự nỗ lực không ngừng. Dòng thiền Việt Nam sau gần bảy trăm năm đi vào quên lãng, đã được Hòa thượng thắp sáng trở lại. Ngài nói: “Thiền tông là cốt tủy của Phật giáo. Bởi vì muốn chỉ chân lý hiện hữu nơi con người, song ngại người ta khinh thường và dễ quên, nên kinh điển Đại thừa nói bằng cách diễn giảng những hình ảnh thâm sâu khó hiểu, còn thiền sư dùng thuật xuất quỷ nhập thần khiến người ta mờ mịt không có lối vào. Nếu ai tháo gỡ được cây chốt bí mật ấy, tự nhiên thấy nó chân thật bình dị vô cùng. Chừng đó mới thấy Kinh và Thiền không có hai lối. Tuy nhiên Thiền tông luôn luôn tuyên bố Giáo ngoại biệt truyền, cốt dẫn hành giả thấy đến nơi sống chân thật, không mắc kẹt trên văn tự ngữ ngôn, không chết chìm trong suy tư lý luận. Nếu Thiền tông khác với kinh Phật tức không phải đạo Phật rồi. Chính vì lẽ đó, Thiền và Kinh luôn song hành để đưa hành giả đến nơi rốt ráo chân thật.” Những năm theo học tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang, Hòa thượng là người siêng năng cần mẫn toàn tâm duyệt tạng. Tuy nhiên chỉ thú kinh điển Đại thừa đối với ngài lúc bấy giờ thật xa xôi diệu vợi. Về sau, nhân duyên được một Phật tử cúng dường Đại tạng, Hòa thượng xem đây là linh hồn của ngài trên khắp mọi nẻo đường tu học cũng như hành đạo. Khi về Phương Bối am, đây là thời gian tốt nhất để ngài vừa tu thiền vừa nghiên cứu kinh điển và dịch thuật. Giáo nghĩa Đại thừa và Thiền tông dần dần sáng tỏ. Các tác phẩm, dịch phẩm của Hòa thượng ra đời như: Tham Thiền Yếu Chỉ, Tọa Thiền Dụng Tâm Ký, Tọa Thiền Tam Muội v.v… đã mở đầu cho sự nghiệp văn học thiền của ngài. Rời Phương Bối về Huệ Nghiêm, Hòa thượng tiếp tục con đường hoằng pháp lợi sanh và luôn giữ hoài bão tu thiền mãnh liệt. Đến năm 1966, Hòa thượng về Núi Lớn - Vũng Tàu, dựng Pháp Lạc thất chuyên tâm tu thiền. Đại duyên đại chí khởi phát, cánh cửa Không mở toang, con đường thiền rực sáng, toàn bộ giáo nghĩa Thiền tông hoát nhiên thông thống. Hòa thượng thống khoái chống gậy xuống núi, dựng pháp tràng lập tông chỉ, tiếp tăng độ chúng. Thiền viện Chơn Không ra đời. Con đường thiền giáo đồng hành được Hòa thượng mở ra hướng dẫn cho tăng ni Phật tử hữu duyên. Vừa hành thiền, vừa dịch thuật, vừa giảng dạy, ngài đã thật sự làm sống dậy dòng thiền Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm, dịch phẩm thiền tiếp tục xuất hiện như: Xuân Trong Cửa Thiền, Bát-nhã Tâm Kinh, Nguồn Thiền, Luận Tối Thượng Thừa, Thiền Căn Bản, Thiền Đốn Ngộ, Sử 33 Vị Tổ Ấn Hoa, Thiền Sư Trung Hoa, Bích Nham Lục v.v… lần lượt ra đời, đáp ứng nhu cầu tu thiền của tăng ni Phật tử ngày càng đông. Năm 1974, thiền viện Thường Chiếu ra đời, Thiền tông Việt Nam bước sang một bước ngoặt mới. Tu học và lao động trở thành phương châm sống của thiền sinh. Tuy khó khăn kham khổ mà thầy trò vẫn tươi vui, tin tưởng. Cuộc sống được khai hoang từ những mảnh đất khô cằn vụn vỡ. Đó chính là sức sống thiền, tuôn chảy từ trong nguồn tâm sâu thẳm của sự tỉnh thức an nhiên. Pháp hóa của Hòa thượng cứ thế lan tỏa vào đời, Thường Chiếu trở thành tổ đình truyền bá Thiền tông Việt Nam. Cuối đông 1991 Hòa thượng cho ra đời tác phẩm Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ XX, nói lên con đường tu tập của dòng thiền Chơn Không - Thường Chiếu. Kinh sách của Hòa thượng đã trở thành cẩm nang cho hành giả tu thiền Việt Nam: Nguồn An Lạc, Hoa Vô Ưu, Quy Sơn Cảnh Sách, Bát Đại Nhân Giác, Thập Nhị Môn Luận, Kim Cang, Viên Giác, Pháp Hoa, Pháp Bảo Đàn, Lăng-già, Trung Quán, Thiền Sư Việt Nam v.v… đã được tăng ni Phật tử đọc tụng hành trì dưới sự giảng giải cặn kẽ của Hòa thượng. Năm 1993, thiền viện Trúc Lâm ra đời, đây là đỉnh cao của hành trình khôi phục dòng thiền nước Việt. Thiền tông Việt Nam phát triển rực rỡ. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, tất cả các nghi thức tụng niệm và hành lễ đều được Việt hóa hoàn toàn tại thiền viện Trúc Lâm, cũng như các thiền viện trực thuộc dòng thiền của Høòa thượng. Những tác phẩm ra đời tại thiền viện Trúc Lâm như: Phụng Hoàng Cảnh Sách, Tiến Thẳng Vào Thiền Tông, Khóa Hư Lục, Tham Đồ Hiển Quyết và Thi Tụng Các Thiền Sư Đời Lý, Mười Bức Tranh Chăn Trâu, Thiền Tông Bản Hạnh, Kiến Tánh Thành Phật, Thánh Đăng Lục, Tam Tổ Trúc Lâm v.v… Có thể nói sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh và sự nghiệp văn học thiền của Hòa thượng đã cống hiến cho Phật giáo Việt Nam một kho tàng trí tuệ quý báu vô lượng. Năm 1997, Ban Văn Hoá Thường Chiếu ra đời dưới sự chủ trì của ngài. Tăng ni hàng môn hạ vâng theo sự chỉ giáo của Hòa thượng ân sư, cùng nhau biên tập lại toàn bộ tác phẩm, dịch phẩm của ngài trong suốt những chặng đường hoằng truyền chánh pháp mà Hòa thượng đã tâm tâm niệm niệm vì đạo pháp vì chúng sanh. Sự nghiệp văn học của ngài được gầy dựng từ khi còn là tăng sĩ trẻ cho đến những năm gần cuối đời thật không gì có thể sánh nổi. Bởi vì ở đó là kho tàng vô giá của trí tuệ và công phu, những kinh nghiệm tu tập quý báu của một bậc thầy lớn, một thiền sư, một chân tăng thật tu thật ngộ. Không kể đến những công trình dịch thuật, sáng tác, thi kệ về thiền tông, không kể đến những tác phẩm giảng giải thâm thúy bình dị, không kể đến những năm tháng miệt mài bên những trang giáo án dành cho tăng ni tứ chúng… Sáng giá nhất là toàn bộ cuộc đời tu tập và hành đạo của ngài. Đây mới chính là tác phẩm vô giá trong sự nghiệp văn học thiền của Hòa thượng. Văn là người. Mượn đầu bút xoay chuyển dòng nghiệp thức muôn đời, giúp chúng sanh chuyển mê khai ngộ, mang hạnh nguyện tự lợi lợi tha đi vào đời, cho nên toàn bộ tác phẩm của Hòa thượng cũng chính là con người của ngài. Một ngôi sao sáng trong văn học thiền Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Ở đó ánh lên những chất vị cao đẹp tinh khiết mà đậm đà dễ gần dễ đến của một thiền sư Việt Nam: chân chất, bình dị, trí tuệ và tròn đầy bi mẫn. Có thể nói sự nghiệp văn học thiền của Hòa thượng đã đóng góp cho nền văn học Phật giáo Việt Nam nói chung và nền văn học Thiền tông Việt Nam nói riêng một kho báu trí tuệ và kinh nghiệm tu tập vô cùng quý giá. Tăng ni Phật tử Việt Nam không thể nào nói hết lòng cảm kích tri ân đối với ngài. Thông qua kinh sách và băng giảng của Hòa thượng, người sau có thể lần mò theo dấu vết người trước, nhận được nguồn sống tâm linh của một bậc chân tăng, một thiền sư Việt Nam vào thế kỷ XXI. Từ đó noi theo tu tập ngõ hầu thành tựu sự nghiệp giác ngộ giải thoát cho chính mình. Bên cạnh con đường thực chứng tâm linh, hoằng pháp và văn hóa là sự nghiệp độ sanh sáng chói nhất của Hòa thượng. Đây là niềm vinh hạnh và là tấm gương sáng cho tăng ni Phật tử Việt Nam. Muốn giữ gìn và rộng truyền công đức của ngài, quả là một việc làm quá sức đối với hàng đệ tử thô tâm thiển trí. Song không thể để cho pháp bảo vô giá và một đời giáo hóa của thầy tổ bị mai một, chúng tôi đã chẳng ngại tài hèn sức mọn, công phu kém cỏi, cùng nhau tận tâm tận lực biên tập và hệ thống lại toàn bộ kinh sách của Hòa thượng ân sư. Hy vọng bộ Thanh Từ Toàn Tập tái bản lần này sẽ đầy đủ và hoàn chỉnh hơn bộ Thanh Từ Toàn Tập đầu tiên đã ra mắt độc giả vào năm 2002. Việc làm này nếu không có sự gia trì của Tam bảo, sự chỉ đạo của Hòa thượng ân sư, sự nhất tâm hòa hợp của chư huynh đệ, sự phát tâm hỷ cúng tài lực của mười phương tín thí, có lẽ Phật sự này khó có thể thành tựu. Tất cả đều vì xiển dương chánh pháp, xiển dương Thiền tông Việt Nam, vì hết lòng tưởng nhớ công ơn giáo dưỡng của thầy tổ, mà hướng tâm về pháp bảo, mong phần nào đền đáp thâm ân rộng sâu của Ân sư, thực hiện hoài bão của thầy tổ, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn. Công đức có được chúng tôi xin dâng lên cúng dường Hòa thượng ân sư, nguyện ngài sống lâu nơi đời, là nơi nương tựa tâm linh cho tăng ni tứ chúng trên con đường tu học cho tới ngày viên mãn. Đồng nguyện hồi hướng về pháp giới chúng sanh chuyển mê khai ngộ, tịnh hóa thân tâm, mỗi mỗi đều được hàm triêm lợi lạc. Chúng con xin thành tâm đê đầu đảnh lễ sám hối Thầy, vì những lỗi lầm sai sót trong khi chấp bút biên tập lại kinh sách và băng giảng của Thầy, vì sự hạn chế về trí tuệ cũng như công phu tu tập của chúng đệ tử. Chúng con cùng nguyện theo chân Thầy học đạo cho tới ngày thành tựu giác ngộ viên mãn mới thôi. Xin được cảm kích tri ân các pháp hữu hoan hỷ chỉ bảo cho những sai sót khó tránh khỏi của bộ sách. Sau cùng xin cảm niệm công đức tất cả quý Phật tử gần xa đã tùy tâm ủng hộ cho Phật sự in ấn bộ Thanh Từ Toàn Tập được thành tựu viên mãn. Thiền viện Thường Chiếu, ngày 12-12-2012 |
|
- Chư Tăng Ni và Phật tử muốn phát tâm cúng dường Ấn tống hoặc thỉnh bộ sách Thanh Từ Toàn Tập liên lạc: Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
+ Tài khoản USD chuyển từ nước ngoài số: 3996.9159
Xin lưu ý: Sau khi chuyển tiền xin nhắn tin đến số điện thoại 0909080306 hoặc Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. để các Thầy kiểm tra và hồi báo.
|
| |
Sử 33 Vị Tổ Ấn Hoa
- Chi tiết
- Được đăng ngày Chủ Nhật, 27 Tháng một 2013 06:08
- Viết bởi chanhdao
LỜI ĐẦU SÁCH

Đức Thế Tôn thị hiện ra đời đã trên 25 thế kỷ, là vị giáo chủ cõi Ta-bà, đấng toàn giác, toàn trí, toàn năng. Bằng ánh sáng tuệ giác vô biên, Thế Tôn đã đưa muôn vạn sinh linh ra khỏi vô minh tăm tối, dựng lại mọi đổ nát mê đồ. Từ đó, cõi nhân gian bừng sáng, kiếp phiêu linh kịp bước quay về. Nói cho cùng Ngài đã cứu sống muôn loài đang trầm nịch giữa mê tân khổ thống, mở ra một chân trời tịnh thanh, một cõi đi về an vui giải thoát.
Ngọn tâm đăng sáng mãi, thay Thế Tôn hoằng hóa độ sanh. Thượng tổ Ca-diếp, tôn giả A-nan… các ngài luôn có mặt, cùng nhau tiếp nối mạng mạch tâm tông, làm lợi ích khắp muôn sinh. Kế thừa Tổ đạo, chư vị tổ sư Mã Minh, Long Thọ khơi dậy, xương minh, tôn giả Đề-bà dẫn luận dẹp tan tà pháp, khiến Phật đạo hưng thịnh, mười phương hải hội cùng về.
Mặt trời Phật chiếu soi, Tổ Tổ tương thừa. Giọt máu vút cao như sữa trắng của tổ Sư Tử, minh chứng cho thân năm uẩn không thật thì sá gì nghiệp trả nghiệp. Chỉ làm sao đèn Phật sáng mãi, chúng nhân thiên lợi lạc không cùng. Hơn thế nữa, cõi Tây Thiên Phật đạo quang huy, trời Trung thổ thiền phong lan tỏa. Bồ-đề tổ sư sang Đông, đất bằng dậy sóng. Chín năm diện bích, một tráng sĩ chặt tay, để lại bài pháp an tâm vang rền chấn động. Mọi tăm tối như mớ bòng bong giờ xóa tan, không còn lý do vẩn vơ vọng đôïng nữa.
Dòng thiền tuôn chảy mãi tận Tào Khê Tân Châu. Nơi đây, rừng sâu núi thẳm xuất hiện một tiều phu cũng ngâm nga bản lai vô nhất vật. Chân trời thông thống mở toang, một cõi yên bình muôn thuở. Để từ đó năm tông bảy phái tiếp vãng khai lai, đời đời ngọn đèn Phật sáng soi, đưa chúng sanh đồng về Phật đạo.
Hôm nay đầy đủ duyên lành, tôi cùng chư huynh đệ trong tông môn ngẫm lại đoạn nhân duyên xuất thế độ sanh, từ đức Thế Tôn đến Thượng tổ Ca-diếp, Tổ Tổ kế thừa. Ấn Độ Trung Hoa, duy nhất một dòng truyền tỏa sáng Phật tâm tông, lợi lạc quần mê.
Tuy nhiên như vậy, tôi tự thẹn mình không lượng sức, dám lạm bàn Phật Tổ môn phong. Thật đáng trách! Song, trộm nghĩ thâm ân Phật Tổ, công đức của Ân sư nên gượng truyền đạt cho người sau cùng biết cùng tu, hoàn chỉnh nhân duyên thừa hành Phật đạo, viên mãn công đức. Một việc làm coi như tự múa rìu trước cửa Lỗ Bang. Xin được sám hối.
Có bao nhiêu công đức, hướng về pháp giới chúng sanh, nguyện kết duyên lành đồng thành Phật đạo.
Thiền viện Thường Chiếu, 01.01.2013
Kính ghi,
THÍCH NHẬT QUANG
ĐIẾU VĂN BAN QUẢN TRỊ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ tư, 23 Tháng một 2013 05:34
- Viết bởi chanhdao
ĐIẾU VĂN
BAN QUẢN TRỊ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
Kính bạch Giác linh Hòa thượng thượng Đắc hạ Pháp, Cố vấn Ban Quản trị Thiền phái Trúc Lâm, là Huynh trưởng trong môn hạ của Hòa thượng Ân sư.
Giờ này đối trước linh đài Hòa thượng Huynh trưởng, toàn thể chư Tăng Ni pháp lữ, pháp đệ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử xin được thành kính dâng lên bậc Trưởng huynh khúc dạ chí thành trước giờ cung tiễn chơn linh của Huynh trưởng tấn nhập bảo tháp, vui hưởng Niết-bàn.
Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
Trước linh tiền toàn thể chư Tăng Ni huynh đệ xin phép được thay mặt Huynh trưởng ngưỡng vọng về Hòa thượng Ân sư thành tâm đảnh lễ cúng dường và sám hối Ân sư. Sự ra đi của Huynh trưởng tuy không quá đường đột với tuổi tác và bệnh duyên nhọc nhằn, nhưng lại sớm với lòng trông đợi của Thầy và chư huynh đệ trong tông môn, Ân sư và anh em từng phút từng giây mong đợi sức khỏe Huynh trưởng hồi phục. Bởi hơn bao giờ hết, lúc này tất cả huynh đệ chúng ta cần có mặt bên nhau để Ân sư yên lòng mà chóng vượt khỏi bệnh duyên.
Đại chúng vẫn còn nhớ cũng ngày mồng 7 tháng Chạp năm trước, tại Tổ đình Thường Chiếu, trong buổi họp truyền thống của Thiền phái Trúc Lâm, câu nói của Huynh trưởng thật bùi ngùi xúc động như sống lại trong lòng Tăng Ni tứ chúng “Tất cả chư huynh đệ có biết, chúng ta đã mồ côi phân nửa rồi đó. Nhìn thấy Hòa thượng Ân sư thọ bệnh, tôi rất ưu tư, chư huynh đệ phải tu hành thế nào để Hòa thượng được yên lòng, không phải lo lắng vì chúng ta”. Đạo tình Linh Sơn cốt nhục cao như núi, sâu như biển. Hòa thượng thật là bậc Huynh trưởng chí hiếu chí đạo đối với Ân sư. Vậy mà hôm nay Ân sư vẫn còn đó, sao Huynh trưởng lại lặng lẽ ra đi! Những ngày sau cuối Huynh trưởng đã nắm tay sư đệ đinh ninh dặn dò: “Cố gắng lo cho Thầy thật chu toàn. Việc Tổ đình và tông môn cũng chớ quên. Sau cùng vẫn là nỗ lực tu hành.”
Là đệ tử thiền môn, anh em hổ thẹn chẳng được thần tình bất động như ngài Thần Hội thuở nọ, mà cảm thấy xúc động trào dâng trước tấm lòng và những lời di huấn tối hậu của Huynh trưởng, thấy nỗi trống vắng lớn lao khi Huynh trưởng thuận thế vô thường theo Phật mà bỏ lại chư huynh đệ vẫn một lòng ngưỡng vọng trông mong.
Nước chảy theo khe nào có ý,
Mây tuôn đỉnh núi vẫn vô tâm.
Song sự ra đi của Huynh trưởng dù như bóng trăng đáy nước, như cánh nhạn lưng trời, vẫn không sao tránh khỏi sự bùi ngùi, luyến tiếc cho Giáo hội, cho thiền phái Trúc Lâm, cho môn nhân pháp quyến, không chỉ ngày hôm nay mà mãi mãi về sau. Nghi dung đỉnh đạt, nội lực thâm hậu, hạo khí đường đường. Là bậc Huynh trưởng trong tông môn thân giáo khẩu giáo ý giáo trang nghiêm mẫu mực, nhưng lại sống đời giản dị, khiêm tốn, hiền hòa.

Nhớ thuở trước, trên đảnh Tao Phùng, trong pháp hội của lão Hòa thượng Chân Không, huynh đệ pháp lữ chúng ta chung hưởng nguồn sữa pháp thiền tông, anh em ruột rà như nước hòa với sữa, sống hồn nhiên giữa rừng xanh núi thẳm. Để từ đó, giống mầm Phật tổ ngày càng tăng trưởng, dưới sự nuôi nấng bảo dưỡng của Ân sư, anh em chúng ta lớn lên từng ngày. Niềm vui có được từ công phu hành trì là nguồn động lực tiếp sức cho anh em chúng ta trên con đường tu học và Phật sự sau này. Vượt hơn hơn tất cả chư huynh đệ, nơi Huynh trưởng đọng lại nét sáng nhất vẫn là thần thái thanh thản nhẹ nhàng, dù ở bất cứ nơi đâu hay gặp hoàn cảnh nào, lúc sinh tiền cũng như khi sắp sửa ra đi.

Anh em không thể nào quên lời dạy của Huynh trưởng: “Tôi tu thiền, nên tổ chức tang lễ theo nghi thức thiền môn. Đơn giản, trang nghiêm. Tôi không thích rườm rà, chỉ nên tụng Bát-nhã và ngồi thiền mà thôi.” Huynh đệ chúng con xin lấy đây làm tấm gương sáng soi chung và nguyện sẽ vâng theo di huấn tối hậu của Hòa thượng Trưởng huynh.
Bằng tinh thần phụng sự đạo pháp, báo Phật ân đức, Hòa thượng đã hiện thân trên cõi đời 75 năm, hơn 50 năm cống hiến cho đạo pháp và nhân sinh. Là bậc long tượng trong thiền môn, mô phạm chốn rừng thiền, Hòa thượng đã nỗ lực tu tập, trước sau như một là con cháu thiền phái Trúc Lâm, kế thừa đạo mạch Tổ tông. Tuy nhiên, Ngài vẫn đóng góp hòa hợp với Giáo hội. Với tư cách là bậc tôn đức lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo tỉnh Vĩnh Long, Hòa thượng đã nối kết được Tăng già với xã hội, phụng sự đạo pháp và dân tộc, tốt đạo đẹp đời, mở Phật học trường, đào tạo Tăng Ni tài đức cho Giáo hội, dịch kinh viết sách. Là một thiền tăng chốn Không môn, Hòa thượng xứng đáng là hàng hậu bối truyền trì mạng mạch chánh pháp Như Lai, là vị trưởng tử đức hạnh và hiếu hạnh của Hòa thượng Ân sư, là bậc Huynh trưởng đạo cao đức trọng, thân giáo khẩu giáo kiêm ưu, đáng để toàn thể Tăng Ni pháp quyến noi theo.
Cuộc đời và sự nghiệp của Hòa thượng đã điểm lên trang sử Phật giáo Việt Nam cũng như Phật giáo tỉnh Vĩnh Long nói chung và thiền phái Trúc Lâm nói riêng một nét son rực rỡ, nhưng tất cả đối với Ngài cũng chỉ là Phật sự không hoa, đạo tràng thủy nguyệt. Cuối cùng chỉ còn lại một cõi Bát-nhã sắc sắc không không, đủ duyên thì ở, hết duyên đi, mặc tình tự tại tiêu dao, không thú lắm sao!
Giữa cuộc buông tay lên Phật Tổ,
Dọc ngang ba cõi mặc tình chơi.
Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
Giờ đây, huynh đệ chúng con, hàng pháp tử môn hạ của Hòa thượng Ân sư, là pháp đệ pháp lữ của Ngài, xin khấu đầu đảnh lễ cung tiễn. Báo thân Huynh trưởng không còn hiện hữu trên cõi đời này, nhưng Pháp thân vẫn mãi mãi vĩnh hằng trong cõi vô cùng, công đức và đạo hạnh của Hòa thượng vẫn sống mãi trong lòng Tăng Ni tứ chúng thiền phái Trúc Lâm.

Kính nguyện giác linh Hòa thượng vui miền tĩnh tại, thường nhớ chốn này, phát đại bi tâm trở lại cùng kết duyên tu hành, cho đến ngày viên thành Phật đạo. Chư huynh đệ thiền phái Trúc Lâm xin nguyện vâng theo di huấn của Hòa thượng chung vai gánh vác sự nghiệp thiền tông Việt Nam do Hòa thượng Ân sư khai sáng, một lòng phụng sự Thầy Tổ, nguyện nỗ lực tu hành và hóa độ chúng sanh như lời chư Phật chỉ dạy.
Cúi mong giác linh Hòa thượng Huynh trưởng từ bi chứng tri cho lòng thành của chúng con.
Nam mô Tân Viên Tịch Trúc Lâm Thiền Phái, Sơn Thắng Đường Thượng, Thái công Hòa thượng Thích Đắc Pháp chi Giác Linh.
CẢM NIỆM ÂN SƯ
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ tư, 23 Tháng một 2013 01:50
- Viết bởi chanhdao
BÀI CẢM NIỆM ÂN SƯ CỦA MÔN ĐỒ PHÁP QUYẾN
HÒA THƯỢNG ÂN SƯ THƯỢNG ĐẮC HẠ PHÁP
NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
- Kính bạch Chư tôn đức giáo phẩm Hội Đồng Chứng Minh, Hội Đồng Trị Sự TW Giáo Hội Phật giáo Việt Nam.
- Kính vọng về tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu, thành kính đỉnh lễ Hòa Thượng Thượng Thanh Hạ Từ, tông chủ Thiền Phái Trúc Lâm.
- Kính bạch Chư tôn đức thường trực Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Vĩnh Long.
- Kính bạch Chư tôn đức Tăng- ni Ban Quản trị Thiền Phái Trúc Lâm.
-Kính bạch Chư tôn đức Tăng Ni hiện diện.
- Thưa quý vị lãnh đạo Đảng, Chính quyền Mặt trận, cơ quan ban ngành các cấp cùng toàn thể nhân dân và quý vị Phật tử.
Trong giờ phút trang nghiêm trọng thể, trước Giác linh Hòa Thượng Ân Sư, khói trầm tỏa ngát, môn đồ pháp quyến chúng con có duyên sự đầu thành đỉnh lễ, xin dâng lời tác bạch.
NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
Đối trước Giác linh ân sư, quỳ dưới chân Chư tôn thiền đức Tăng Ni. Hàng môn đồ pháp quyến đệ tử chúng con khấu đầu phủ phục. Trước giờ phút kính tiễn kim quan của Hòa Thượng ân sư, chúng con thành tâm đỉnh lễ sám hối, kính xin Chư Tôn Đức thương xót cho phép chúng con dầng lên Giác linh Ân Sư đôi dòng cảm niệm.
Kính bạch giác linh Thầy!

Trong những ngày gần Xuân, giữa tiết trời mát mẻ, hạnh nguyện Thầy viên thông, cõi hồng trần đã hết, Thầy mãn duyên nhẹ bước, chốn Niết Bàn thảnh thơi, chúng con lại chơi vơi, giữa Ta Bà cõi tạm, trĩu nặng dòng lệ rơi.
Kính lạy Thầy! chúng con vẫn hiểu
Các pháp từ duyên sinh
Cũng do duyên mà diệt.
Đức Phật Đại Sa Môn
Thường dạy điều như thế.
Quả thật, vốn biết cuộc đời chỉ là sự biến chuyển không ngừng do các luật vô thường, khổ, không, vô ngã chi phối. Thế nhưng, chúng con lại quá đau lòng khi được tin Thầy đã mãi ra đi. Kinh Phật ngày đêm tụng đọc, giáo lý năm tháng học tu nhưng đến những lúc như thế này mới biết nào đâu đã “thấm tương chao”, chẳng nghe lời Thầy, không thuộc ý Phật…chúng con còn thơ dại lắm phải không thưa Thầy ơi.
Thầy đã mượn thân tứ đại giả hợp làm thuyền từ, để đưa mình, độ người vượt bến mê tân. Trước lúc biết mình sẽ đi xa, Thầy gọi chúng con mà nhắn nhủ. Tùy theo tính nết của từng người, Thầy ân cần dặn dò nhắc nhở mới thân thương làm sao.
Thầy ơi! Làm sao chúng con có thể quên được, hình bóng thầy với dáng vẻ khoan thai, với lòng từ bi không chỉ riêng với chúng con mà với tất cả muôn người. Thầy có khuôn mặt phúc hậu giống tựa như đức Phật, dù chỉ một lần được gặp không ai lại chẳng kính tin, nên hàng đệ tử luôn gọi Thầy bằng một cái tên rất đẹp: Ông Phật. Từ khi được làm đệ tử của thầy, huynh đệ chúng con luôn được sống đầm ấm trong tình thương vô hạn. Nếp sống của thầy là tấm gương chấp nhận và hy sinh, mà hết cả cuộc đời này cũng chưa chắc gì chúng con làm được.
Khi nghe tin Thầy lâm trọng bệnh và nằm điều trị trong viện. Chúng con biết Thầy phải trải qua những cơn đau cùng cực nơi thân thể, nhưng Thầy vẫn rất an nhiên. Sự thảnh thơi vững chãi của Thầy được thể hiện bằng chính những thái độ nhẹ nhàng, không buồn bã, lo lắng, thay vào đó trên nét mặt, ánh mắt, nụ cười, của Thầy vẫn thật an lành. Chúng con biết, Thầy giữ được tâm định tĩnh như vậy là nhờ có pháp môn tu tập. Thầy đã có niềm tin bất hoại nơi chánh pháp, nơi phương pháp tu Thiền mà Sư Ông Trúc Lâm là người đã trực tiếp giáo huấn chỉ dạy cho Thầy.
Thầy có một đức tính bao dung và hòa hợp thật hiếm có. Trong những năm giữ cương vị Trưởng Ban Tri Sự Phật giáo tỉnh nhà, việc Thầy làm được nhiều vô số kể, nhưng có lẽ Tăng Ni Phật tử trong tỉnh vẫn nhớ nhất là đức hạnh nhiếp chúng của Thầy. Thầy đã đưa Phật giáo cùng chung một mối, mọi người cùng chung một lòng để xây dựng và phát triển Phật giáo.
Và đặc biệt hơn nữa là lòng hiếu thảo của Thầy đối với Bậc Ân Sư của mình Hòa thượng Thích Thanh Từ, tông chủ Thiền phái Trúc Lâm. Mặc dù thân thường xuyên không khỏe nhưng chưa năm nào mà không dưới 2 lần Thầy đều lên tận Thiền Viện Trúc Lâm hay ra Tổ đình Thường chiếu để đảnh lễ khánh tuế Sư Ông vào dịp mãn Hạ an cư và dịp Tết xuân về. Đây cũng là bài học cho hàng đệ tử chúng con noi theo.
Kính bạch Giác linh thầy!
Chúng con cũng biết, Thầy ra đi như thế này cũng là ý Thầy muốn. Khi biết bệnh của mình không thể khả thi hơn, Thầy đã thuận theo một cách tự nhiên mà không cần cưỡng cầu. Thấy đệ tử nào phải khuya sớm bên mình, chăm sóc vất vả, chạy ngược chạy xuôi, lo lắng cực khổ, mong Thầy mau khỏe, Thầy chẳng muốn phiền. Thế nhưng Thầy ơi, những lúc như thế, cực kỳ cao điểm, chúng con không thể bỏ Thầy một mình mà chịu đựng, chỉ cần nhìn thấy Thầy còn đó, bên chúng con, dù chỉ trong chốc lát, chúng con vẫn hết lòng. Ngẫm lại mới thấy, chẳng ai như Thầy, sợ phiền đệ tử. Chúng con đã phải, khóc lên thật nhiều, khi Thầy như thế.
Khi sư Thúc Thường Chiếu nói, trước kia ai cũng bảo Thầy phải sống đến 120. Nhưng vì biết thân mang trọng bệnh, sự ra đi sẽ sớm hơn lẽ thường tình. Thầy đã chuẩn bị cho huynh đệ chúng con chu đáo mọi việc. Lúc nào Thầy cũng dăn đi dặn lại: “Thầy đi rồi, các con đừng chia rẽ nhé. Hãy luôn yêu thương nhau như khi Thầy còn sống”.
Nhưng thầy ơi! Chúng con quặn thắt lòng đau. Dù bao năm nay thân mang trọng bệnh, nhưng không ngày nào thầy ngơi nghỉ thân tâm. Từ lo công việc chung của Giáo hội với nhiều trọng trách nặng nề đến việc tiếp tăng độ chúng tu học tại ngôi trường Trung Cấp Phật học tỉnh nhà mà Thầy dành hết tâm huyết lo toan. Rồi Vạn Cơ, Phước Lâm là hai ngôi Già Lam tại những vùng quê chưa có Phật pháp, nhưng nay đã trở thành chỗ tu học rất đông cho Phật tử quanh vùng của địa phương rồi Thầy ạ.
Đối với bản thân, Thầy chẳng nghĩ ngợi gì. Sống đơn giản làm sao. Con còn nhớ, khi Thầy bị bệnh khớp nặng, đi lại rất khó khăn, có Phật tử đã phát tâm đưa Thầy qua Singapo điều trị. Biết hết nhiều tiền, Thầy nói: “Thôi được rồi, Thầy không thích dùng đồ giả đâu, nếu có gì trục trặc lại khổ. Chân Thầy vẫn tốt, có thể xài được hết đời này. Nếu có tiền, cúng dường để Thầy nuôi chúng tu học”.
Rồi lại một lần khi Thầy chùa đã xuống cấp nhiều, có Phật tử muốn phát tâm xây cất toàn bộ lại theo thiết kế chung của các Thiền viện trong Tông môn, nhưng Thầy lại từ chối và nói: “Xung quanh đây, cuộc sống người dân còn vất vả lắm, nếu xây dựng đồ sộ như vậy, Thầy sợ không ai đến chùa nữa đâu. Công trình nào nếu quá xuống cấp thì sửa lại chút, còn không vẫn để đó mà sử dụng, chưa đến nỗi nào đâu…”. Ôi, thế mới biết lòng thầy thương, nghĩ về chúng con và mọi người thật vô tận biết chừng nào.
Kính bạch Thầy, huynh đệ chúng con thật là diễm phúc khi được làm đệ tử của Thầy, và thời gian gần đây thầy trò được gần nhau luôn. Chúng con ở bên thầy đầy đủ không thiếu người nào. Tuy căn bệnh làm thân Thầy đau nhức lắm, thấy Thầy đau chúng con bật khóc, Thầy nói rằng: “chăm sóc người bệnh phải biết quán tưởng mà tu hành. Ai cũng phải trải qua những giai đoạn như thế này, có biết vậy mới nỗ lực tu tập để tự tại với nó”. Các con phải luôn nhớ, người xuất gia học đạo thì trước hết phải thấy được lỗi mình, nói lỗi mình, chớ nên thấy lỗi người và nói lỗi người kẻo mang tội nhiều chuyện”…
Kính bạch Thầy, trước Giác linh Thầy, huynh đệ chúng con xin hứa: “luôn nghe lời Thầy dặn, sẽ trên dưới thuận hòa, thương yêu nhau như ruột thịt, nâng đỡ và che chở cho nhau. Sống thật an lạc, hạnh phúc. Tiếp nối hạnh nguyện của Thầy, để trở thành những người đệ tử ngoan của Thầy, luôn cố gắng tu tập, làm Phật sự cho đạo pháp, xứng đáng là con cháu Thiền gia”.
Chúng con biết, những tháng ngày còn lại không có Thầy ở bên là vô cùng khó khăn, nhưng xin Thầy hãy yên lòng an nghỉ vì huynh đệ chúng con còn có Chư tôn Đức trong Ban Trị Sự, cùng quý sư thúc - bá trong Thiền Phái của mình sẽ luôn chỉ dạy và yểm trợ cho chúng con. Và nhất là trí tuệ - bản nguyện và tình thương của Thầy luôn hiện hữu trong mỗi chúng con. Làm ánh đuốc sáng soi đường, làm kim chỉ nam dẫn lối. Chúng con kính xin Thầy ở cõi Niết Bàn, luôn gia hộ và che chở cho đệ tử chúng con!
Đệ tử chúng con Thành kính đỉnh lễ bái biệt thầy!

Nam Mô Thiền Phái Trúc Lâm, Sơn Thắng đường thượng, Ma Ha Tỷ kheo Bồ Tát giới Thượng Đắc Hạ Pháp, giác linh Hòa Thượng Tôn Sư thiền tọa hạ, tác đại chứng minh .
Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa toàn thể Đạo tràng, trước sự mất mát lớn lao nầy, chúng con được Quý Ngài thương tưởng về chốn Trụ Xứ chứng minh, chỉ đạo công việc, niêm hương bạch Phật chú nguyện hộ niệm cho Giác Linh Tôn Sư chúng con. Với ân đức cao dầy ấy, chúng con không biết lấy gì đền đáp xin thành tâm đê đầu đỉnh lễ Quý Ngài. Ngưỡng mong Chư Tôn Đức từ bi chứng giám. Trong công việc đón tiếp không sao tránh khỏi sơ thất trong tứ uy nghi, Chúng con thành tâm đê đầu đỉnh lễ sám hối.
Chúng tôi xin cảm ơn các ban ngành, đoàn thể, các cấp chính quyền, bà con nhân dân và Phật tử xa gần đã bớt chút thời gian, về phúng viếng và tận tình giúp đỡ môn đồ pháp quyến, thân quyến chúng tôi. Đồng thời chúng tôi cũng xin cảm ơn các quý vị phóng viên báo đài đã đến dự và đưa tin lễ tang . Trong quá trình tổ chức tang lễ không tránh khỏi những sơ suất, kính mong quý liệt vị niệm tình hoan hỷ.
NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT
MA HA TÁT TÁC ĐẠI CHỨNG MINH!
Pháp tử pháp tôn chúng con đồng kính bái
Lễ cung tống kim quan và nhập bảo tháp cố trưởng lão HT. Thượng Đắc hạ Pháp
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ ba, 22 Tháng một 2013 06:49
- Viết bởi chanhdao
Sáng 22/1/2013 (nhằm ngày 11 tháng chạp Nhâm Thìn), tại TV Sơn Thắng, TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, toàn thể môn đồ hiếu quyến cùng chư tôn giáo phẩm lãnh đạo giáo hội và đông đảo Phật tử trang nghiêm tổ chức Lễ cung tống kim quan và nhập bảo tháp cố trưởng lão HT. Thượng Đắc hạ Pháp.
Đến chứng minh và tham dự đại lễ tiễn biệt có sự hiện diện của HT. Thích Thiện Nhơn - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN, HT. Thích Giác Toàn – Phó chủ tịch HĐTS kiêm Phó Ban giáo dục Tăng Ni, HT. Thích Thiện Pháp – Phó tổng Thư ký kiêm chánh VPII TW GHPGVN, HT. Thích Phước Tú - Phó TT BTS tỉnh hội Phật giáo tỉnh Vĩnh Long, HT. Thích Như Tước – Phó Ban thường trực BTS tỉnh hội Phật giáo tỉnh Vĩnh Long cùng chư tôn đức Tăng Ni trong và ngoài tỉnh Vĩnh Long, Tăng Ni sinh tại các bản trường, Vĩnh Long, Học viện PG tại TP. HCM, các trường trung cấp, cao đẳng các nơi, tông môn pháp phái các hệ thống Thiền viện thuộc thiền phái Trúc Lâm.
Chương tình lễ cung tống kim quan và nhập bảo tháp như sau:
- Ban kinh sư tác lễ triệt linh sàng, chính thức di quan. Đại lễ cung tống kim quan được tổ chức trang nghiêm trong thể, dưới sự chứng minh, gia trì của chư tôn đức lãnh đạo giáo hội, dưới sự hộ niệm thiết tha của chư tôn đức Tăng Ni cùng quý Phật tử. Tiếng niệm Phật vang dài lung linh cả một góc trời Sơn Thắng, tạo nên khúc nhạc trầm hùng, ru lời ru tiễn biệt ngàn thu.
- Nghi lễ nhập bảo tháp được thực hiện theo nghi thức truyền thống Phật giáo. HT. Thích Phước Tú tuyên đọc cuộc đời và hành trạng cố HT. Thích Đắc Pháp, HT. Thích Thiện Nhơn tuyên đọc điếu văn của HĐTS TW GHPGVN, HT. Thích Như Tước cung tuyên điếu văn của BTSPG tỉnh Vĩnh Long. Đáp lại tấm chân tình mà chư tôn đức cùng quý Phật tử đã dành cho BTC, TT. Thích Trí Hải thay mặt môn đồ hiếu quyến đọc lời cảm tạ và dành những tình cảm sau cùng đối với ân sư, trước khi tiễn người về cõi Phật.
Biết rằng thân giả hợp này là vô thường huyễn hóa, nhưng mấy ai cầm lòng được trước những tấm chân tình mà thầy trò đã dành cho nhau. Trong giờ phút vĩnh biệt này, nước mắt không thể không rơi, niềm thương nhớ không thể nào ngăn nỗi. Xin được một lần phủ phục tiễn biệt Thầy.







































































Theo Nhuận Bình (phatuvietnam.net)
Đêm cuối bên Thầy
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ ba, 22 Tháng một 2013 01:35
- Viết bởi chanhdao
Đêm cuối (21/1/2013), đêm tiễn biệt Hòa thượng Sơn Thắng, bầu trời Vĩnh Long như buồn tha thiết, tiễn người đi hoa cỏ chợt xao lòng. Thế là đêm cuối cùng cũng đã diễn ra, dù không muốn, ngàn vạn lần không muốn, nhưng làm sao để níu nỗi được thời gian!
Để có được những phút giây ấm nồng nhất trước lúc tiễn biệt Thầy, hàng môn nhân hiếu quyến đã tề tựu đông đủ về bên giác linh Thầy, làm những công việc mà bất kỳ người hiếu tử nào cũng đều phải thực hiện. Đó là cung thỉnh chư tôn đức giáo phẩm trợ tiến giác linh lễ Yết tổ và Bố tát. Điều đáng nói ở đây là sự hiện diện đông đủ của chư tôn đức giáo phẩm trợ tiến giác linh, thể hiện tình linh sơn thắm thiết.
Lễ Bố tát được diễn ra trong sự hòa hợp, hoan hỷ, để rồi toàn môn nhân hiếu quyến đã có một đêm sống trọn vẹn bên tình đồng đạo nghĩa thầy trò. Sự họp mặt đông đủ của các Tăng Ni sinh từ khóa I đến khóa VI trong đêm “tri ân Thầy”, làm cho không gian tang lễ ngập tràn tình yêu thương, ấm cúng. Giọt nước mắt nào đó đã rớt rơi ở khóe mi, tiếc nuối cho một bậc thầy khả kính, một ông lái đò tận tụy suốt đời vì đàn hậu học mai sau. Từng bài điếu văn của từng khóa được cất lên, như một lần nữa nhắc đến ân tình mà Thầy đã dành cả cuộc đời để chỉ dạy, yêu thương.
Hạnh phúc cho hàng môn đệ hơn nữa, cũng trong đêm tiễn biệt, toàn thể ban quản trị Thiền Phái Trúc Lâm và hàng môn hạ trong tông môn từ khắp nơi đã huân tập đông đủ về Thiền viện Sơn Thắng để chia sẽ và tiễn biệt. Đại diện ban quản trị đã có bài điếu văn cảm động, cùng những lời dặn dò thấm tình đạo vị.
Đêm cuối được ở cạnh Thầy, đêm cuối cùng bên kim quan với nhục thân của Thầy đang hiện hữu, sẽ trân trọng những phút giây ngắn ngủi này.































































































Theo Nhuận Bình (phatuvietnam.net)
Các bài khác...
- Ảnh các đoàn viếng HT. Thích Đắc Pháp chiều ngày thứ 3 (tiếp theo)
- Ảnh các đoàn viếng HT. Thích Đắc Pháp ngày thứ 3
- Ảnh các đoàn viếng HT. Thích Đắc Pháp ngày thứ 2 (tiếp theo)
- Thiền tọa bên kim quan nhục thân Thầy
- Ảnh các đoàn viếng HT. Thích Đắc Pháp ngày thứ 2
- Ảnh: Các đoàn viếng HT. Thích Đắc Pháp ngày đầu
- Lễ Nhập Kim Quan HT. Thích Đắc Pháp
- Hình ảnh những giấy phút cuối cùng của Hòa thượng Thích Đắc Pháp
- Trích hành trạng Hòa thượng Thích Đắc Pháp
- Đổ sàn mái Chánh điện TVTL Chánh Giác ngày 22/12/2012




















Thiền tông Việt Nam luôn là mạch sống tuôn chảy trong lòng Phật giáo và dân tộc suốt từ thế kỷ thứ VI đến nay. Có lúc mạnh mẽ tuôn tràn giữa ngàn hoa đô hội, có lúc len lỏi âm thầm trong núi sâu rừng thẳm, ung dung thoát tục, khuất tịch tiêu sái. Tuy nhiên, mạch sống thiền xưa nay vẫn như vậy, không đến không đi, là dòng sinh mệnh muôn thuở của những bậc thức tâm đạt bổn. 


































































TVTL Từ Ấn 

