headertvtc new


   Hôm nay Thứ tư, 17/12/2025 - Ngày 28 Tháng 10 Năm Ất Tỵ - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mong
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

DIỄN VĂN KHÁNH THÀNH TVTL THANH NGUYÊN

 DIỄN VĂN KHÁNH THÀNH

THIỀN VIỆN TRÚC LÂM THANH NGUYÊN

Ngày 14/08/Giáp Ngọ (07/09/2014)

hinhsuphuphatbieuNam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Kính bạch chư tôn Giáo phẩm Lãnh đạo Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam,

Kính bạch chư tôn giáo phẩm Lãnh đạo Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Dương, các tỉnh bạn, Ban Trị sự Phật giáo huyện Phú Giáo, chư tôn đức Tăng Ni Ban Quản trị Thiền phái Trúc Lâm cùng toàn thể chư tôn thiền đức Tăng Ni hiện diện,

Kính thưa quý vị khách quý Đại diện Đảng, Chánh quyền các cấp và các đạo tràng Phật tử,

Thưa liệt quý vị,

Lời đầu tiên, chúng tôi xin trân trọng kính chào chư tôn Giáo phẩm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chư tôn Giáo phẩm Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Dương, cùng toàn thể chư tôn thiền đức Tăng Ni hiện diện, quý vị khách quý, đại diện các cấp chánh quyền, các đạo tràng Phật tử, đã niệm tình về đây chứng dự Lễ Khánh thành - An Vị Phật Thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên. Kính chúc quý Ngài thân tâm thường lạc, Phật sự viên thành. Chúc quý vị khách quý, đại diện các cấp chánh quyền, các đạo tràng Phật tử vạn sự kiết tường như ý.

Hướng về Hòa thượng Tôn sư, chúng con cung kính cảm bội công đức giáo dưỡng của Thầy, ngưỡng nguyện từ lực của Hòa thượng gia bị cho buổi lễ Khánh thành và An vị Phật hôm nay được thập phần viên mãn.

Kính thưa toàn thể liệt quý vị,

Thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên ra đời từ năm 2002 do sự phát tâm hỷ cúng của Phật tử Từ Vân, nhưng chỉ với hình thức một nông thiền. Mãi đến năm 2013 được sự cho phép của UBND tỉnh Bình Dương và đặc biệt sự quan tâm giúp đỡ của Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bình Dương, thiền trang đã chánh thức được công nhận là thiền viện, sinh hoạt tu tập theo Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Chư huynh đệ chúng ta đã vượt qua giai đoạn ban đầu đốn cây, dựng nhà tạo nên một thiền trang ấm áp giữa rừng cao su bạt ngàn, kết duyên Phật với nhau trong sắc màu xanh tươi. Đến giai đoạn thứ hai, lại một lần nữa chúng ta chung vai sát cánh bên nhau đắp nền, đóng vách, lợp mái, ròng rã ngày đêm trải qua 7 tháng không ngừng nghỉ, để có được một đạo tràng như hôm nay. Tất cả đều nhờ vào sự nhiệt tâm đóng góp công sức và tài lực của Tăng Ni Phật tử cùng các anh em thợ hồ thợ mộc trong đội thi công. Chính từ những thành quả thiết thực này tạo nên công đức khai mở, nuôi dưỡng, phát huy mạch sống thiền nơi đây. Thật là niềm vui lớn đối với Thiền phái Trúc Lâm nói riêng và Phật giáo tỉnh Bình Dương nói chung.

Thiền viện không nguy nga tráng lệ nhưng trang nghiêm tuấn nhã, không màu sắc thanh tân nhưng đậm đà chân quê như chính tâm hồn mộc mạc của những thiền sinh một lòng cầu đạo.

Có thể nói đây là một kiến trúc thuần Việt, đậm nét dân dã quê hương. Ở đó còn có cả tấm lòng của Tăng Ni Phật tử ngưỡng mộ tu thiền, chờ đợi bao nhiêu năm qua để có được một ngôi nhà tâm linh, là chốn trở về, là nơi nương tựa vững chắc của khách hữu duyên sau những năm tháng mỏi mệt với cuộc sống phù du.

Danh hiệu Trúc Lâm Thanh Nguyên đã được Hòa thượng Tôn sư chứng thuận với hai ý nghĩa. Thứ nhất, đây chính là tôn hiệu của thiền sư Thanh Nguyên, một thiền sư Việt Nam thuộc tông Tào Động, sống vào thời Nguyễn tiền bán thế kỷ thứ 19. Ngài là ngọn đuốc sáng trong dòng thiền nước Việt, là tấm gương về sự thâm chứng ngộ đạt và cẩn trọng khiêm cung. Thỉnh tôn hiệu Ngài đặt cho Thiền viện cũng không ngoài chủ ý mong cho chư Tăng Ni, Phật tử nơi đây noi theo tấm gương sáng của người xưa mà nỗ lực tu học. Thứ hai, chính là ý nghĩa của hai chữ Thanh Nguyên. Chữ Thanh nghĩa trong sạch thanh tịnh, chữ Nguyên nghĩa là cội nguồn. Trúc Lâm Thanh Nguyên chính là nguồn tâm trong sạch nơi mỗi chúng ta. Về Thiền viện là về với nguồn tâm của chính mình. Với ý nghĩa đó hy vọng Thiền viện sẽ là nơi dừng nghỉ an ổn nhất cho bao khách tha hương.

Sự ra đời của Thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên là một dấu hiệu cho thấy sự phát triển và hòa hợp của Phật giáo tỉnh nhà trong sự nghiệp phát triển chung của Giáo hội. Hy vọng Trúc Lâm Thanh Nguyên sẽ là một viên gạch trong ngôi nhà Phật pháp tại nơi này, góp phần xây dựng nền móng vững chắc cho Giáo hội và đạo pháp trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, tịnh hóa nhân gian. Từ đây Phật giáo tỉnh Bình Dương có thêm một ngôi già-lam chung vai sát cánh với Giáo hội trong sự nghiệp phụng sự đạo pháp và dân tộc, hành Như Lai sứ tác Như Lai sự.

Thiền phái Trúc Lâm có thêm một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, là nơi tu học cho Tăng Ni, Phật tử hữu duyên với thiền tông.

Với sự gia hộ của Tam bảo, nương uy đức và phước trí của Hòa thượng Tôn sư, sự quan tâm giúp đỡ đầy đạo tình của Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Dương, chư vị Lãnh đạo Đảng, Chánh quyền tỉnh Bình Dương, huyện Phú Giáo và địa phương sở tại, cộng với sự phát tâm hỷ cúng của quý Phật tử, Thiền viện đã được xây dựng và hoàn thành mỹ mãn trong thời gian sớm nhất. Sự tận tụy và đồng tâm hợp lực của chư Tăng Ni cũng như công đức hộ trì Tam bảo của tất cả quý vị thật vô cùng cao quý. Chúng tôi xin thành tâm cảm niệm tri ân.

Sự có mặt của ngôi Thiền viện nơi vùng sâu vùng xa chính là niềm vui của Phật tử Phú Giáo nói riêng và Phật tử Bình Dương nói chung. Sự kiện này cho thấy công đức pháp hóa của Hòa thượng Trúc Lâm ngày càng lan tỏa và thấm sâu vào tâm thức của những người con Phật. Thiền tông Việt Nam đã và đang có mặt khắp nơi trên đất nước thân yêu. Chúng tôi xin được gởi gắm niềm tin đến chư Tăng Ni và Phật tử nơi đây, mong tất cả hãy vâng theo di huấn của đức Phật, cảm trọng ân đức của Hòa thượng Ân sư, luôn sống đúng với tinh thần hòa kính, tu theo đường lối chủ trương của Thiền phái Trúc Lâm do Hòa thượng Ân sư chỉ dạy.

Trong giờ phút trang nghiêm thanh tịnh này, thay mặt Hòa thượng Tôn sư, thay mặt Ban Quản Trị Thiền phái Trúc Lâm, chúng tôi xin trân trọng kính mừng Lễ Khánh thành - An vị Phật Thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên. Một lần nữa xin thành kính tri ân chư tôn Giáo phẩm Lãnh đạo Trung ương Giáo hội, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Dương, Ban Trị sự huyện Phú Giáo, các cấp chánh quyền địa phương sở tại, rất mong quý Ngài tiếp tục quan tâm giúp đỡ cho thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên trong những giai đoạn sắp tới.

Đồng thời cũng xin gởi đến gia đình Phật tử Từ Vân lời chúc nguyện thân an tâm lạc, Bồ-đề tâm kiên cố, luôn vững tiến trên bước đường học đạo tu nhân, cùng gởi đến toàn thể quý Phật tử lời tán dương công đức, quý vị là hàng đệ tử hộ đạo của đức Phật, luôn có mặt và đồng hành với chư Tăng Ni trên bước đường hộ trì chánh pháp. Tất cả công đức có được nguyện hồi hướng về cho pháp giới chúng sanh hàm triêm lợi lạc.

Kính nguyện Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, Thiền phái Trúc Lâm sống mãi trong lòng Phật giáo và Tăng Ni Phật tử Việt Nam.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

ĐẠO TỪ CỦA HÒA THƯỢNG TÔNG SƯ

ĐẠO TỪ CỦA HÒA THƯỢNG TÔNG SƯ
LỄ KHÁNH THÀNH TRÚC LÂM THANH NGUYÊN

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni,

Cung kính ngưỡng bạch Thầy,

Vâng lời Thầy dạy trong công tác xây dựng các thiền viện, chúng con đã ngày đêm khẩn trương thi công để thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên có thể Khánh thành trong thời gian sớm nhất. Vì Thầy lúc nào cũng mong muốn Tăng Ni đi vào nề nếp tu học càng sớm càng tốt. Như Thiền sư Đại Giác đã dạy “Thời gian không hẹn, mạng người khó bảo tồn. Nguồn tâm nếu đục, đường trước lại mờ, cơn bệnh chợt đến, vô phương chống đỡ. Khi ấy lo lắng ăn năn thì đã quá muộn, chưa lúc nào bằng lúc này. Mỗi người chúng ta gắng tự nỗ lực. Nên biết hạnh lành chẳng chất chứa, danh đâu thơm nức. Một pháp chóng sáng, muôn duyên tỏ rạng”.

Hôm nay thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên đã hoàn thành viên mãn công tác xây dựng, toàn thể chúng con hàng môn hạ của Thầy, đồng lòng cung thỉnh Ân sư chấn tích quang lâm thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên chứng minh khai mạc Đại lễ Khánh thành. Chúng con một lòng quy ngưỡng về Hòa thượng Ân sư, đê đầu đảnh lễ cảm bội ân đức của Thầy. Lòng bi mẫn của Ân sư mãi là từ lực tiếp sức cho chúng con và chúng sanh trong suốt cuộc hành trình tiến đến Phật đạo. Ngưỡng mong trên Thầy thùy từ lân mẫn chứng tri cho lòng thành của chúng con.

Dưới đây, chúng con xin phép trích đọc một đoạn lời dạy của Thầy năm xưa, để sách tấn chư huynh đệ hôm nay trên bước đường tu học:

Kể từ hôm nay, chúng tăng đã bớt phần lao nhọc, chỉ còn chăm sóc vườn cây và gieo trồng rau cải để tiêu dùng hàng ngày. Thế thì chúng tăng phải dồn hết tâm lực vào việc tu học, là việc bổn phận của mình. Người tu theo đạo Phật, ai ai cũng khao khát được học chánh pháp, được có nơi an ổn tu hành. Nơi đây hiện giờ có đủ hai yếu tố này, tăng chúng không còn chần chờ lo ngại gì nữa, nên hạ quyết tâm tu cho được sáng đạo mới mãn nguyện của mình và khỏi hổ thẹn một đời làm tăng sĩ.

Những năm cuối đời, tôi mong được trông thấy khu vườn thiền tông, những đóa hoa nở rộ thơm ngát và kết nhiều chùm quả chín mọng ngọt ngào. Được vậy tôi mới an lòng toại nguyện khi ra đi. Đó là lời nhắc nhở của tôi gởi đến chư tăng tại nơi này.

 

Hình ảnh TVTL Thanh Nguyên

 NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI

 Năm 2002, gia đình Phật tử Từ Vân hiến khu đất tại xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, cúng dường Hòa thượng Tôn sư thượng Thanh hạ Từ, với mong muốn nơi đây sẽ được xây dựng thành một thiền viện để tiếp độ tứ chúng tu học đúng theo đường lối Thiền Tông Trúc Lâm Việt Nam. Hòa thượng hứa khả và giao cho chúng tôi tiếp nhận gìn giữ.

 Đầy đủ duyên lành năm 2013 Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Dương và các cấp chính quyền chấp thuận cho phép thành lập Thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên. Sau đó Thiền viện chính thức làm lễ động thổ xây dựng trong niềm hoan hỷ của toàn thể chư tôn lãnh đạo GHPGVN tỉnh Bình Dương, chư tôn đức tăng ni trong thiền phái Trúc Lâm và đạo tràng Phật tử.

 Với sự hộ trì của Tam bảo, nương phúc trí của Hòa  thượng Tôn sư, sự giúp đỡ của chư tôn Giáo phẩm, chư tôn đức BTS GHPGVN tỉnh Bình Dương, huyện Phú Giáo cùng các cấp chính quyền tỉnh nhà và sự đồng tâm hiệp lực đóng góp của đông đảo Phật tử gần xa. Sau bảy tháng thi công, Thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên đã hoàn thành phần cơ bản.

 Chúng tôi thành tâm tri ân chư tôn đức và chính quyền các cấp cùng quý nam nữ Phật tử đã tích cực hỗ trợ chúng tôi thực hiện Phật sự này được thành tựu viên mãn.

 

BBT xin giới thiệu một số hình ảnh TVTL Thanh Nguyên trước ngày khánh thành

tvtlthanhnguyen


PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN - Thiền Thất Thường Lạc

 

Vénérable THÍCH THANH TỪ

 

METHODE DE MEDITATION ASSISE

PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN

 

PREFACE

 

Cette méthode de méditation assise selon la voie de Thiền Tông Việt Nam [Bouddhisme Zen Vietnamien] comprend un certain nombre de mouvements de base appliqués à notre pratique. Elle a servi de guide aux moines et moniales dans les différents monastères de méditation, mais également aux bouddhistes laïcs désireux de la suivre à domicile.

De par nos expériences, nous avons pu observer des résultats évidents chez les pratiquants comme l’acquisition progressive d’un état calme physique et spirituel, le renforcement quotidien d’une sagesse les menant à une vie perfectible et paisible, au travers d’actions  ‘‘moins égocentriques et plus altruistes’’ apportant le bon, le beau et le serein pour eux-mêmes, à leurs familles et la société.

Ces derniers temps, de nombreuses communautés religieuses et laïques ont sollicité notre enseignement dans le désir d’apprendre et de pratiquer cette méthode.

Afin de répondre à ce besoin, nous avons mis à jour et réédité ce petit manuel en espérant qu’il constituera une aide utile à tout pratiquant monastique ou laïc débutant, attiré par le Thiền Tông Vietnamien. 

Monastère Trúc Lâm Dalat

Fête du Vesak année 2553

du calendrier Bouddhique (2009)

Vénérable THÍCH THANH TỪ

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

Phương pháp tọa thiền này theo đường lối Thiền Tông Việt Nam, bao gồm một số động tác căn bản mà trong thời gian qua chúng tôi đã ứng dụng tu và hướng dẫn cho chư Tăng, Ni tại các thiền viện hành trì, đồng thời cũng có một số Phật tử tại gia ham mộ tu thiền quan tâm thực hành.

Kiểm nghiệm qua thực tế công phu, chúng tôi nhận thấy đều có những kết quả nhất định như: thân tâm hành giả dần dần được an định, trí tuệ ngày càng tăng trưởng, đời sống theo đó mà được thuần thiện và an lạc - thể hiện qua những việc làm “xả kỷ vị tha”, góp phần đem lại cho bản thân, gia đình và xã hội một nhân tố tốt đẹp, an bình.

Gần đây, nguyện vọng tìm hiểu và thực hành môn tọa thiền này được nhiều giới các nơi yêu cầu chúng tôi chỉ dẫn.

Để đáp ứng phần nào nhu cầu trên, chúng tôi điều chỉnh và cho tái bản. Mong rằng quyển sách nhỏ này sẽ giúp ích bước đầu cho chư Tăng, Ni, Phật tử yêu thích Thiền học Việt Nam.

Thiền viện Trúc Lâm

Mùa Phật đản PL.2553- 2009

Hòa thượng THÍCH THANH TỪ

 suong4

 

PRATIQUE DE MEDITATION ASSISE
 

Au cours de la vie quotidienne, soumis aux multiples phénomènes externes, notre esprit est constamment sollicité ; c’est cette agitation qui trouble notre tranquillité. L’esprit constitue la source du cycle de naissance et de mort générant nos afflictions, c’est également l’origine du Nirvāṇa.

Ainsi, la méditation est un moyen enseigné par Bouddha pour ramener le mental à l’attention juste.

En toutes postures, en marchant, debout, assise ou allongée, nous devons apprendre à vivre en pleine conscience, et cela même dans toutes nos activités quotidiennes. Cependant pour les débutants, la posture assise s’avère être la pratique la plus adaptée de toutes.

 

PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN


Hằng ngày khi chúng ta đối duyên xúc cảnh tâm ý dao động, từ sự dao động đó nên tâm không được khinh an. Tâm là đầu mối của sanh tử phiền não và cũng là nguồn cội của Niết bàn.

Do đó, Phật phương tiện chỉ dạy thiền định để nhiếp tâm chánh niệm.

Trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, chúng ta phải tập sống trong trạng thái tỉnh thức. Hằng thắp sáng hiện hữu của mình trong mọi hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên đối với người sơ cơ, tọa thiền vẫn là một phương pháp thù thắng hơn các oai nghi kia.

 

MATERIEL REQUIS

 

▪ Un coussin rond rembourré de kapok, de 20 cm de diamètre sur 20 cm de hauteur, laquelle se réduit à 10 cm pour une assise convenable, les dimensions du coussin étant fonctions des préférences du pratiquant.

▪ Un tapis carré de 70 cm de côté, à étendre sur le sol et à placer sous le coussin.

▪ Une serviette souple ou un coussinet est utilisé pour combler l’intervalle entre les jambes croisées.

 

 DỤNG CỤ TỌA THIỀN

 

▪ 1 bồ đoàn tròn, đường kính 2 tấc, bề cao 2 tấc, dồn gòn khi ngồi xuống còn 1 tấc là vừa.

▪ 1 tọa cụ vuông 7 tấc để trải dưới, bồ đoàn đặt lên trên.

▪ 1 khăn lông hoặc 1 gối nhỏ dùng để chêm bên trên lòng bàn chân trũng.

 

LA MEDITATION ASSISE

Elle est composée de trois étapes:

Entrer - Demeurer – Sortir

 

TỌA THIỀN

Có 3 giai đoạn:

Nhập - Trụ - Xuất

 

A- ENTRER EN MÉDITATION
 

A- NHẬP THIỀN

 

- Quand la session commence, étendez le tapis et disposez le coussin en bordure.

- Đến giờ tọa thiền, trải tọa cụ ra, đặt bồ đoàn lên tọa cụ.

 

- Asseyez-vous, le coccyx au milieu du coussin. Balancez-vous latéralement pour trouver une position confortable avant de replier vos jambes.

- Ngồi lên bồ đoàn, xương cùng đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua nghiêng lại cho an ổn mới kéo chân ngồi.

 

- Desserrez la ceinture, défaites le col de chemise et redressez le corps.

- Nới rộng dây lưng, cổ áo, sửa thân ngay thẳng.

 

- Il y a deux postures d’assise : Lotus et Demi-lotus. 

- Có hai thế ngồi: Kiết già và Bán già.

 

- En demi-lotus: repliez le pied gauche sur la cuisse droite ou vice versa, selon les préférences du pratiquant.

▪ Nếu ngồi bán già, kéo chân trái để lên chân phải hoặc ngược lại, tùy theo chiều thuận của mỗi người.

 

- En lotus: repliez le pied gauche sur la cuisse droite. 

▪ Nếu ngồi kiết già, chân trái kéo để lên đùi phải.

 

- Puis placez le pied droit sur la cuisse gauche ou vice versa.

- Chân phải để lên đùi trái. Hoặc ngược lại cũng được.

 

- La main droite est posée sur la gauche. Les deux mains reposent sur le coussinet. Les deux pouces se touchent légèrement, à hauteur du nombril.

- Lấy bàn tay phải để lên bàn tay trái. Hai bàn tay để lên hai lòng bàn chân. Những ngón tay chồng lên nhau, hai đầu ngón tay cái vừa chạm nhau, nằm ngay chiều rún.

 

- Les coudes embrassent confortablement les flancs.

- Cùi chỏ vừa ôm hông là được.

 

- Si l’espace entre les pieds est trop prononcé, comblez-le avec le coussinet.

- Nếu lòng bàn chân nào trũng nên dùng gối kê lên cho bằng.

 

- Balancer le tronc cinq fois en avant et en arrière, à gauche et à droite en vue d’établir un équilibre optimum en diminuant l’amplitude au fur et à mesure.

Chuyển động thân 5 lần, ban đầu mạnh sau nhẹ dần.

 

- Installez-vous le dos droit, ni raide ni voûté ni incliné, tête légèrement penchée en avant. Le dos voûté et la tête tombante occasionnent de la somnolence.

- Ngồi lưng thẳng vừa phải, đừng quá ưỡn cũng đừng để cong hoặc ẹo, đầu hơi cúi. Lưng còng và đầu cúi dễ sanh hôn trầm.

 

- L’extrémité du nez et les pouces devraient être dans un même plan vertical. Les oreilles surplombent les épaules. Les paupières devraient être ouvertes d’un tiers. Le regard dirigé vers un endroit approprié: un champ visuel trop court induit la somnolence, trop éloigné il facilite la distraction.

- Chiều chóp mũi ngay đầu ngón tay cái, hai trái tai đối xứng với hai bả vai, mắt mở 1/3, tầm nhìn không quá xa: nhìn quá gần dễ sanh hôn trầm, quá xa dễ sanh tán loạn.

 

- Ceux moins enclins à l’endormissement pendant la méditation peuvent fermer les yeux afin de faciliter la concentration et la vision profonde. Restez immobile, le visage reposé et serein. 

- Người nào ít hôn trầm có thể ngồi nhắm mắt, sẽ dễ phản quan hơn. Ngồi yên gương mặt bình thản, vui tươi.

 

- Ensuite, inspirez lentement et profondément à travers le nez. Imaginez l’air pur inspiré se répandre dans toutes les parties du corps. Puis ouvrez légèrement la bouche et expirez légèrement et à fond. En expirant, imaginez que toutes les peines, afflictions et souillures soient exhalées.

- Dùng mũi hít vô cùng, đừng mạnh cũng đừng gấp, phải đều đều nhẹ nhẹ, tưởng như “không khí trong sạch vô khắp châu thân làm cho những chỗ không thông theo hơi thở lưu thông”, rồi há miệng thở ra sạch tưởng như “phiền não, bệnh hoạn, cấu uế đều theo hơi thở ra ngoài”.

- Faites-le à trois reprises et de manière décroissante. 

- Thở như thế đến 3 lần cũng từ thô đến tế từ mạnh rồi nhẹ dần.

 

-  Après la troisième respiration, les lèvres se closent, la pointe de la langue touchant légèrement la base des incisives supérieures. Pour le reste de la session, le souffle va et vient régulièrement et doucement par le nez.

- Thở xong ngậm miệng lại, môi và răng vừa khít lại, lưỡi để lên trên. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng mũi đều đều, nhẹ nhẹ. 

 suong5

 

B- DEMEURER EN MEDITATION

B- TRỤ THIỀN

 

Il y a trois phases successives pour les débutants:

Có ba phương pháp dành cho người sơ cơ:

  

1/ LE COMPTAGE DE LA RESPIRATION

Sổ veut dire compter et tức, le souffle: Sổ tức quán signifie « observer l’inspir et l’expir par comptage » silencieusement jusqu’à dix puis répéter le processus.

Il y a deux systèmes de comptage rapide et lent:

▪ Comptage rapide: inspirez, comptez “un”, expirez, comptez “deux” ; puis, inspirez, comptez “trois” et ainsi de suite en comptant jusque “dix”, ensuite recommencez la série de “dix”.

▪ Comptage lent: inspirez et expirez, comptez “un”, inspirez et expirez, comptez “deux”, continuez ainsi jusqu’à atteindre “dix”, puis recommencez à un. Poursuivrez ainsi toute la session.

Recommencez la série si pendant le comptage le pratiquant s’oublie ou se trompe.

Après une certaine période d’entraînement, lorsque le pratiquant ne fait plus d’erreurs, il peut passer à la phase du Suivi de la Respiration.

1/ SỔ TỨC QUÁN

Sổ là đếm, tức là hơi thở. Sổ tức quán là quan sát hơi thở ra vô, đếm từ một đến mười.

Có hai cách sổ tức: Nhặt và Khoan.

▪ Nhặt: Hít vô đếm một, thở ra đếm hai... Lần lượt đến mười, rồi trở lại bắt đầu từ một.

▪ Khoan: Hít vô thở ra đếm một, hít vô thở ra đếm hai, lần lượt đến mười, rồi bắt đầu trở lại từ một. Cứ đếm như thế suốt thời gian tọa thiền.

Nếu trong lúc đếm từ một đến mười, nửa chừng quên hoặc bị lộn số, ta bắt đầu trở lại từ một...

Sau một thời gian tu tập, hành giả đếm thuần thục không còn lộn số nữa thì ta bước qua giai đoạn Tùy tức.

 

 2/ LE SUIVI DE LA RESPIRATION

Tùy veut dire suivre et tức le souffle. Tùy tức veut dire suivre ou observer le souffle en étant pleinement conscient de chaque mouvement respiratoire.

En scrutant sa respiration, il est conseillé de visualiser le cours de la vie dans un simple souffle. Sans inspiration, la vie se termine à l’expiration même. Autant le souffle est impermanent, autant la vie est elle fragile et éphémère.

Lorsque le suivi de la respiration est parfaitement assimilé, le pratiquant peut passer à la troisième phase, la reconnaissance des pensées.

2/ TÙY TỨC

Tùy là theo, tức là hơi thở. Tùy Tức là theo dõi hơi thở. Hít hơi vô tới đâu là biết tới đó. Hơi thở ra đến đâu cũng đều biết rõ.

Trong khi theo dõi hơi thở, nên dùng trí quán mạng sống trong hơi thở, thở ra mà không hít vào là mạng sống không còn tồn tại. Hơi thở đã vô thường thì mạng sống của ta cũng mong manh giả tạm.

Khi theo hơi thở thuần thục rồi, hành giả bước sang giai đoạn Tri vọng.

3/ LA RECONNAISSANCE DES PENSEES ILLUSOIRES

Au début de la deuxième étape de la méditation assise, observez la respiration pendant quelques minutes, puis relâchez le suivi, laissant l’esprit concentré et apaisé. Dès qu’une pensée surgit, reconnaissez-la aussitôt, mais sans la suivre. Continuez ainsi, les pensées deviendront de plus en plus rares jusqu’à finalement cesser. Les pensées disparaissantes, l’esprit redevient serein, silencieux et clair. L’escient omniprésent est cette connaissance qui se manifeste à travers les six sens.

 

3/ TRI VỌNG

Khi bắt đầu trụ thiền, hành giả theo dõi hơi thở ra vào an ổn đôi ba phút, rồi buông hơi thở để tâm an tịnh. Vừa có vọng khởi liền biết vọng không theo, cứ thế cho đến khi vọng thưa dần và im bặt. Vọng lặng thì tâm thanh tịnh, rỗng rang trong sáng, chân tâm hiện tiền. Cái biết hiện bày nơi sáu căn.

         

 REMARQUES UTILES:

CHÚ Ý:

Pendant la séance, nous devons nous accorder de manière avisée.

Trong lúc tọa thiền phải khéo tự điều chỉnh.

 

▪ En cas de somnolence, le pratiquant doit rouvrir les yeux et se ressaisir. Durant une longue assise, si l’on en vient à somnoler, ouvrez largement les yeux, réajustez le corps, ravivez l’attention et revenez à l’état premier solennel.

▪ Nếu mơ màng ngủ gục thì mở mắt sáng ra, chấn chỉnh thân tân phấn chấn, trang nghiêm lại.

 

▪ Pendant la méditation assise, une fuite de salive est signe de dispersion et qu’il faudra se ressaisir.

▪ Trong khi ngồi nếu thấy chảy nước miếng là hoãn (lơ là) nên chấn chỉnh lại.

 

▪ Une sensation d’oppression thoracique, un pincement au cœur, une gêne respiratoire traduisent une posture trop rigide : infléchissez-vous un peu.

▪ Nghe ngực nặng, tim hơi nhói là do ngồi thẳng quá, hơi thở không thông nên rùn xuống một chút.

 

▪ Une gêne lombaire est due à l’affaissement du corps : redressez-vous.

▪ Nghe nhức xương sống gần lưng quần, biết ngồi cong, phải thẳng lên.

 

▪ Une douleur au flanc est provoquée par l’inclinaison unilatérale.

▪ Đau hông là do bị nghiêng.

 

▪ Une douleur unilatérale de l’épaule pourrait révéler une bascule des épaules avec un côté plus bas que l’autre : réajustez leur position.

▪ Nếu nhức một bên vai, coi chừng hai vai không ngang nhau, một bên bị lệch xuống.

 

▪ Une douleur bilatérale des épaules pourrait être la conséquence d’une crispation des 2 membres supérieurs. Il faudra relâcher tout le corps dans une posture de détente.

▪ Nếu nhức cả hai vai là do gồng hai tay, phải nới lỏng ra, toàn thân ở trong tư thế thư giãn.

 

▪ L’endolorissement des fessiers provient du fait que le corps se penche trop en arrière.

▪ Đau mông là vì ngồi ngửa người ra phía sau.

 

▪ Une sensation de lourdeur de la tête ou des bourdonnements d’oreille est due à une assise trop rigide, corps et tête trop tendus. Relâchez-vous doucement, cela disparaîtra spontanément.

▪ Nghe trên đầu có gì đè nặng, hoặc nghe vo ve bên lỗ tai, là vì ngồi kềm, gồng mình, đầu hơi cứng nên mới có triệu chứng như vậy, chứ không có gì lạ. Nhẹ nhàng buông xả thư giản, một lúc sẽ hết.

 

Durant la méditation, si des épiphénomènes tels que sensation de pesanteur, d’apesanteur, ou encore de démangeaisons tels les picotements dans le corps, l’insecte qui rampe sur le visage, ou tel le courant électrique à travers la colonne vertébrale, ou encore de halo lumineux, d’images mouvantes étranges, de chuchotements... Tout ceci n’est que sensation, par conséquent, les pratiquants ne doivent ni s’en réjouir ni s’en effrayer. Considérez-les comme faux et éphémères. Restez assis tranquillement, maîtrisez votre corps et votre esprit. Même à la vue de fantômes ou du Bouddha lui-même, rendez vous clairement compte que ce ne sont que des illusions. Tant la joie que la peur peuvent provoquer la folie, n’y soyez pas attachés, dès lors elles s’évanouiront.

Khi ngồi thiền, nếu có những tướng lạ như thân nặng nề giống như có vật gì đè nặng, thân nhẹ nhàng muốn bay bổng, ngứa trên thân, mặt như có con gì bò, cảm giác có luồng điện chạy trong xương sống, thấy phía trước có ánh sáng hoặc các hình lạ, nghe có người nói bên tai. Tất cả những tướng ấy đều giả, không nên chấp nhận hay sợ hãi. Phải quán nó hư giả, ngồi yên làm chủ thân tâm. Dù thấy ma hay Phật, hành giả đều thấy cảnh huyễn, không mừng cũng không sợ. Vui mừng hay sợ hãi đều là nhân của điên cuồng. Không chấp trước, không quan tâm để ý , huyễn cảnh sẽ tự mất.

  C- SORTIR DE MEDITATION

C- XẢ THIỀN

 

A la sortie de la méditation, récitez intérieurement les stances de transfert de mérites:

Que ces mérites et vertus de la pratique

Soient dédiés à tous

A nous-mêmes et aux êtres sensibles

Afin de réaliser la Bouddhéité.

 Khi xả thiền, trước thầm đọc bài nguyện hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.

 

 

Ensuite, inspirez profondément par le nez et expirez à fond par la bouche trois fois de manière croissante. En inspirant, visualisez le sang accompagner le souffle qui circule partout dans le corps. En expirant, imaginez toutes les afflictions, maladies et impuretés s’exhaler. En sortant de méditation, tous les mouvements respiratoires et gestuels s’amplifient graduellement.

Kế dùng mũi hít vào thật sâu, dùng miệng thở ra 3 hơi, từ nhẹ đến mạnh. Hít vô tưởng như máu huyết theo hơi thở lưu thông khắp cơ thể. Thở ra tưởng như phiền não, bệnh hoạn, cấu uế theo hơi thở ra ngoài. Xả thiền, mọi hơi thở, động tác đều từ nhẹ đến mạnh.

 

- Remuer de haut en bas les épaules, cinq fois pour chaque côté.

- Động hai bả vai lên xuống, mỗi bên 5 lần.

 

- Hocher la tête cinq fois.

- Động cái đầu, cúi xuống ngước lên 5 lần.

 

- Tourner la tête à gauche et à droite, cinq fois de chaque côté.

- Xoay đầu sang phải, sang trái mỗi bên 5 lần.

 

- Puis hocher la tête une dernière fois.

- Cúi xuống ngước lên 1 lần cuối.

 

- Plier et déplier cinq fois les doigts.

- Động hai bàn tay, xòe nắm 5 lần.

 

- Etirer la colonne en s’appuyant sur les mains cinq fois, puis balancer le tronc d’avant en arrière, et latéralement.

- Động thân từ nhẹ đến mạnh 5 lần.

 

- A la cinquième fois, placez les mains sur les genoux et pressez fortement.

- Lần chót dời hai bàn tay úp lên hai đầu gối, nhấn mạnh xuống.

 

- Frictionner les paumes en les frottant ensemble, puis masser vingt fois le visage.

- Xoa mặt 20 lần.

 

- Masser vingt fois les oreilles.

- Xoa hai lỗ tai 20 lần.

- Masser vingt fois la tête.

- Xoa đầu 20 lần.

 

- Masser vingt fois la nuque.

- Xoa sau gáy 20 lần.

 

- Masser vingt fois la face antérieure du cou.

- Xoa cổ 20 lần.

 

- Utiliser la main droite pour frotter le bras gauche de l’épaule au poignet, en même temps utiliser la main gauche pour frotter le flanc droit de l’aisselle à la hanche, dix fois de chaque côté.

- Dùng bàn tay phải xoa từ vai xuống cánh tay. Bàn tay trái xoa từ nách xuống bên hông, hai bên kết hợp xoa một lượt mỗi bên 10 lần.

 

- Placer la paume de la main droite sur la poitrine et le dos de la main gauche sur le dos.

- Lòng bàn tay phải đặt lên ngực, lưng bàn tay xoa lên lưng, hai tay kết hợp xoa ngang một lượt.

 

- Masser d’un mouvement latéral cinq fois successivement le thorax, l’abdomen et le bas ventre en même temps que le dos.

- Xoa 3 điểm: ngực, bụng, bụng dưới mỗi chỗ 5 lần.

 

- Avec les deux poings, masser la région lombaire, les fessiers et frictionner les cuisses avec les paumes autant de fois que nécessaire.

- Dùng hai bàn tay xoa thắt lưng, xoa mông, xoa đùi (tùy theo đau nhiều hay ít mà xoa, không có số lượng).

 

- Frictionner les paumes ensemble pour les échauffer.

- Chà hai bàn tay cho nóng.

 

- Les appliquer légèrement sur les yeux, le tout cinq fois.

- Áp vào mắt 5 lần.

 

- Saisir avec une main les orteils du pied, et avec l’autre main la cheville, soulever et poser le pied délicatement.

- Một tay nắm đầu các ngón chân, một tay đỡ cổ chân từ từ để nhẹ xuống.

 

- Frictionner fermement  la jambe, de la cuisse au pied.

- Hai bàn tay cùng xoa mạnh lên xuống từ đùi đến bàn chân.

 

- Terminer par le massage vivifiant de la plante du pied.

Le massage d’une jambe étant terminé, passer à l’autre jambe en la frictionnant autant de fois que nécessaire.

- Chà nóng lòng bàn chân.

Xoa chân này xong rồi đổi sang chân kia, xoa tùy thích không có số lượng.

 

- Etendre complètement les deux jambes.

- Duỗi thẳng hai chân ra.

 

- Penchez-vous cinq fois en avant et touchez les orteils avec les doigts.

- Thân rướn về phía trước, các ngón tay vừa chạm đầu các ngón chân 5 lần.

 

- Enfin retirer le coussin et rester immobile en position solennelle quelques instants avant de se lever et de se prosterner devant Bouddha.

- Dời thân khỏi bồ đoàn, ngồi yên khoảng vài phút mới đứng dậy lạy Phật.

 

NOTES :

En sortant de la méditation, chaque mouvement s’effectue en massant fermement la peau et les muscles, mais sans brutalité. La durée de l’assise dépend de chaque individu et des circonstances. Plus la séance est longue, plus les pratiquants devront se masser soigneusement pour rétablir la circulation, assouplir les tendons et articulations en prévenant ainsi le risque de sciatique. Tous les mouvements et la respiration s’effectuent de doucement à plus amplement. La durée de ce massage post-méditation dure de 10 à 15 minutes.

 

CHÚ THÍCH :

Khi xả thiền mọi động tác xoa bóp đều phải ấn mạnh vào da thịt, nhưng đừng thô ồn. Thời gian ngồi thiền tùy theo hoàn cảnh hay điều kiện của từng người mà ngồi lâu hay mau. Ngồi càng lâu thì xả thiền xoa bóp càng kỹ, giúp các mạch máu được lưu thông, gân cốt mềm dẻo, tránh bị bệnh thần kinh tọa. Các động tác và hơi thở bắt đầu từ tế đến thô. Thời gian xả thiền từ 10 đến 15 phút.

LỜI CHỈ DẠY CỦA HÒA THƯỢNG ÂN SƯ MÙA AN CƯ NĂM 2014

LỜI CHỈ DẠY CỦA HÒA THƯỢNG ÂN SƯ MÙA AN CƯ NĂM 2014
 

Cùng tất cả Tăng Ni,

Mỗi năm trước mùa An cư kiết hạ, Tăng Ni về đây đảnh lễ cầu tôi chỉ dạy pháp yếu, quý vị nương theo đó tu học cho được kết quả tốt đẹp. Hôm nay tôi nhắc lại một số điều cần thiết, chư Tăng Ni nhớ ghi và hành trì, sao cho xứng đáng một mùa an cư có ý nghĩa.

Lâu nay chúng ta tu thiền, lấy kinh Bát-nhã làm nền tảng, tức là phải đạt được lý Không thì mới thấu được lý thiền. Phật dạy rất rõ ràng, chúng ta có thân tứ đại, thân bằng quyến thuộc, có nhà cửa, chùa chiền v.v... Tất cả những thứ đó đối với người hiểu sâu đạo lý đều là giả. Người thấu đáo tường tận lý Bát-nhã thì không thấy có một pháp thật ở giữa thế gian này.

Như vậy kinh Bát-nhã là bài kinh quan trọng và thông dụng trong Phật pháp. Đạo Phật là đạo giác ngộ, muốn giác ngộ phải có con mắt trí tuệ, mà Bát-nhã là trí tuệ. Chư vị Bồ-tát đã thấu suốt được lý Bát-nhã, nên lúc nào các ngài cũng vui vẻ dấn thân vào đời làm lợi ích chúng sanh, quên mình vì tha nhân. Chúng ta nguyện đi trên con đường Bồ-tát đạo, cần phải học theo gương hạnh của các ngài. Trước phải có trí tuệ thấy biết như thật, không nên cố chấp sai lầm, tự lợi cho mình sau mới nghĩ đến lợi tha.

Cho nên trong thời gian tu học ở thiền viện, quý vị phải cần mẫn siêng năng, học hỏi đạo lý, nuôi dưỡng đức hạnh, huân sâu chủng tử Bát-nhã. Người con Phật đầy đủ trí tuệ, đức độ mai kia mới có thể làm Phật sự, mở mang giáo hóa mọi người. Nếu ngày nay Tăng Ni không chịu tu học thì mai kia không làm được gì, thật đáng hổ thẹn. Như vậy là tự phí cuộc đời mình, lại làm tổn thương lòng kính tin Tam bảo của Phật tử. Tăng Ni nên ý thức mình đang vay nợ Phật tử, vì thế phải học phải tu cho xứng đáng, để sau này đền đáp lại công ơn của đàn na tín thí. Nếu tu học lơ mơ chẳng những cô phụ công ơn thầy tổ, cha mẹ, chư Phật tử, mà còn hủy cả cuộc đời của mình. Thật đáng trách!

Mỗi ngày quý vị phải cần kiệm thời gian tu học, không được để mất một giờ hay nửa giờ nào hết. Bởi vì mỗi giờ tu là mỗi giờ vàng ngọc, mỗi giờ làm Phật. Chúng ta nguyện sớm được giác ngộ giải thoát, ra khỏi biển khổ trầm luân, cứu độ chúng sanh thì lẽ đương nhiên phải tu cho đến nơi đến chốn. Vì thế việc tu hành là một trọng trách nặng nề, chứ không phải dễ dàng. Muốn giác ngộ phải ngồi thiền cho được định, định rồi mới có trí tuệ tỉnh sáng. Ngay đời này chúng ta cương quyết phải tỉnh phải giác. Đừng bao giờ nói tu gieo nhân để đời sau tu tiếp mà phải quyết tử đời này cho xong. Bởi vì có ai biết được đời sau có gặp Phật pháp nữa hay không? Cho nên mỗi vị phải cố gắng tận lực, không nên hẹn lần hẹn lữa qua ngày.

Tất cả Tăng Ni phát tâm xuất gia tu hành đều nuôi ý chí xuất trần. Tu để vượt thoát trần lao ra khỏi sanh tử thì tâm phải cương quyết như sắt đá, chứ không thể lôi thôi được. Xuất trần nói đủ là xuất trần thượng sĩ, tức là bậc thượng sĩ ra khỏi trần lao. Cho nên phải mạnh dạn dẹp bỏ hết thói hư tật xấu. Những gì ương yếu phải hăng hái làm cho mạnh mẽ lên, như vậy sự tu mới có kết quả tốt. Đừng để thói quen yếu đuối làm lui sụt, dù cảnh duyên bên ngoài dễ hay khó cũng phải giữ tâm không thối chuyển thì mới thực hiện được ý chí xuất trần. Cho nên tất cả phải cố gắng tu đến nơi đến chốn, không nên lừng chừng làm mất bản nguyện xuất trần của mình.

Mong chư Tăng Ni nhớ lời tôi nhắc nhở mà nỗ lực trong ba tháng an cư. Đừng bê trễ, đừng để một đời qua suông, không có kết quả gì. Làm sao mỗi năm tu mỗi tiến, càng tu càng vui tươi, an ổn, thảnh thơi. Nếu càng tu càng buồn là tu không đúng hoặc chưa biết tu. Chúng ta siêng năng tinh tấn vâng lời Phật dạy, sống với trí tuệ Bát-nhã, xa lìa vọng tưởng đảo điên, nhận được ông chủ của chính mình. Vậy mới xứng đáng là đệ tử Phật, xứng đáng là người tăng sĩ mang tâm nguyện tự lợi, lợi tha viên mãn.

Mùa An Cư 2014 - PL 2558


 

Thiền Đường Trúc Lâm Phúc Đức

Thiền Đường Trúc Lâm Phúc Đức
Truclamzen Incorporated
56 Pringle Avenue, Bankstown NSW 2200
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

 

--------------------

Khoá tu 7 ngày tại Milson Island- Sydney- Australia new

  • Cơ duyên hình thành

Trong khi thiền đường Vô Ưu xây cất, một số thiền sinh không có nơi sinh hoạt, nên đạo hữu Trí Phát và Chơn Hỷ đã phát tâm cho sử dụng ngôi nhà toạ lạc tại số 56 Pringle Ave Bankstown làm nơi sinh hoạt.

Ngày 3 tháng 4 dương lịch năm 2010 quý Thầy Thích Thông Chiếu, Thích Thông Tướng, Thích Thông Nhã cùng quý Cô Thích Nữ Trí Định, Thích Nữ Huệ Căn và Thích Nữ Tâm Thanh đã từ bi đến làm lễ An Vị Tôn Tượng Phật cho ngôi nhà này và nó trở thành thiền đường từ đó.

• Danh hiệu

Tháng 12/2011 thiền đường được Hoà Thượng Trúc Lâm đặt tên là Phúc Đức

• Tu Tập

Mỗi tuần thiền sinh đến sinh hoạt từ 7 giờ chiều thứ bảy cho đến 4 giờ chiều chủ nhật

Thiền đường tổ chức 3 đến 4 khoá tu học ngắn hạn 2 đến 3 ngày mỗi năm.

Nếu đủ duyên thiền sinh có thể đăng ký nhập thất ngắn hạn.

hinh01

• Cơ sở vật chất hiện tại

Diện tích đất khoảng 1200m vuông. Thiền đường hiện có:

1x chánh điện
1x thiền đường
1x thiền thất
1x Tăng phòng
2x phòng ngủ cho Phật tử

• Nhân sự

Ban điều hành gồm có:

Trưởng chúng: Thuần Niệm (di động) 0422 035 665
email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Phó chúng: Chơn Hỷ (di động) 0413 060 319
email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Thủ quỹ: Chơn Đức (di động) 0424 573 999
email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Từ Tâm (di động) 0414 466 521
email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Chơn Lạc email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Tuệ Hạnh (di động) 0424 366 586
email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Tuệ Trí (di động) 0714 040 739
email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Phổ Khai Tuệ (di động) 0411 813 529
email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Thiền Đường Trúc Lâm Phúc Đức
Truclamzen Incorporated
56 Pringle Avenue, Bankstown NSW 2200
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

hinh02

Thời khóa sinh hoạt hàng tuần

Thứ bảy

+ 19g Tụng Kinh Sám Hối
+ 19g45 – 21g15 Tọa thiền
+ 21g15 – 21g45 Xả thiền - Hồi hướng
+ 22g00 Chỉ tịnh

Chủ nhật

+ 4g00 Thức chúng
+ 4g30 Tọa thiền
+ 6g30 Xả thiền
+ 7g30 Tiểu thực
+ 8g00 Lao tác
+ 8g30 Tụng Kinh Sám Hối Sáu Căn
+ 9g15 Tọa thiền
+ 10g15 Xả thiền
+ 11g00 Nghe Pháp
+ 12g00 Ngọ trai
+ 13g00 Chỉ tịnh
+ 14g00 Tọa thiền
+ 15g30 Xả thiền - Hồi hướng
+ 16g00 Hoàn mãn

 

Thiền Đường Trúc Lâm Phúc Đức
Truclamzen Incorporated
56 Pringle Avenue, Bankstown NSW 2200
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Nội Quy trong ngày Tu Học

Nội Quy

1. Phải theo đúng chương trình đã định.
2. Phải gìn giữ cẩn thận oai nghi, cử chỉ.
3. Không nên nghĩ đến việc nhà, việc thế gian.
4. Không nên đem việc thế gian ra mà nói.
5. Tắt điện thoại di động trong các khoá lễ, giờ toạ thiền, nghe Pháp, Ngọ Trai.
6. Phải áp dụng Lục hòa trong đời sống tu học:

Sáu phép hoà kính

1. Thân hòa đồng trụ:

Về phần thân, ăn, mặc, ngủ nghỉ và công tác, tất cả Thiền sinh đều hòa đồng nhau.

2. Khẩu hòa vô tránh:

Về phần miệng, luận bàn nói chuyện Thiền sinh phải dùng lời hòa nhã, không lớn tiếng cãi rầy.

3. Ý hòa đồng duyệt:

Đối đãi nhau, Thiền sinh tâm ý phải vui hòa, không cố chấp phiền hận.

4. Giới hòa đồng tu:

Tất cả Thiền sinh trong Thiền đường đều giữ 5 giới làm căn bản và sống đúng nội quy.

5. Kiến hòa đồng giải:

Sống chung nhau, Thiền sinh có những hiểu biết đều giải bày cùng nhau, đồng hiểu đồng cảm thông, không nên có thành kiến riêng tư.

6. Lợi hòa đồng quân:

Tất cả quyền lợi trong Thiền đường của những Thiền sinh hiện có mặt đều đồng nhau.

Thiền Đường Trúc Lâm Phúc Đức
Truclamzen Incorporated
56 Pringle Avenue, Bankstown NSW 2200 

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Thời khoá nhập thất

+ 4g Thức dậy
+ 4g30 – 6g30 Tọa thiền/Kinh hành
+ 7g00 Ăn sáng
+ 8g – 8g30 Lao động tay chân
+ 9g Tụng Kinh Sám Hối
+ 10g – 11g30 Tọa thiền/kinh hành
+ 12g Dùng cơm trưa
+ 12g30 – 14g Chỉ tịnh
+ 14g – 16g Tọa thiền/kinh hành
+ 17g Vệ Sinh cá nhân
+ 18g Tụng Kinh Sám hối
+ 19g – 21g Tọa thiền/Kinh hành
+ 21g30 Nghỉ ngơi

Tiểu Sử - HT Thích Phước Hảo

 

TIỀU SỬ

CỐ HÒA THƯỢNG: THƯỢNG PHƯỚC HẠ HẢO

I.    THẾ TỘC

Hòa thượng húy Huỳnh Phước Hảo, Pháp hiệu Thích Phước Hảo sanh năm Canh Ngọ (1930) tại Vĩnh Bình (hiện nay thuộc huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, xuất thân trong gia đình Nho giáo. Thân phụ là Huỳnh Văn Thoàn, Pháp danh Nhựt Định. Thân mẫu là Trần Thị Sáu, Pháp danh Phước Vinh.

Hòa thượng mất mẹ lúc tuổi còn thơ. Ngài là con Trưởng trong gia đình, thay mẹ gánh vác và chăm lo đàn em thơ dại, nay là các vị: thầy Thích Thanh Tịnh, thầy Thích Thanh Thủy, thầy Thích Đạo Nhẫn và Ni sư Hải Huyền.

Túc duyên Phật pháp ngài gieo trồng sâu dày. Sau khi thân phụ mất, ngài là trụ cột gia đình, khuyến tấn người thân hướng về Phật pháp. Từ thuở thiếu thời, ngài sống giản dị, ăn uống đạm bạc.

II.   ĐẠO PHÁP

Cơ duyên Phật pháp chín muồi, ngài tìm đến tổ Khánh Anh tại Tổ đình Phước Hậu thuộc huyện Trà Ôn xin xuất gia vào năm 1949. Ngài từng theo chân tổ Thiện Hoa học nghề Y để giúp đỡ, chăm sóc và trị bệnh cho bà con láng giềng tại Chùa Phật Quang, Bang Chang, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1957, Hòa thượng thọ giới Tỳ-kheo, làm học Tăng của Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn. Sau đó ngài được đưa về Phật học đường Lưỡng Xuyên (chùa Phước Hòa, Trà Vinh), vừa làm học Tăng vừa làm Trụ trì của chùa.

Năm 1964, tổ Thiện Hòa cử ngài làm Chúng trưởng tại Phật học đường Nam Việt. Kế đó, ngài làm Liên chúng trưởng, rồi vào năm 1970 được bổ nhiệm về làm tổng Giám thị tại Phật học viện Huệ Nghiêm, huyện Bình Chánh, Gia Định.

Năm 1971, ngài theo Hòa thượng Ân sư thượng Thanh hạ Từ tu học tại Tu viện Chân Không, Vũng Tàu. Ngài vừa là sư đệ, vừa là đệ tử của Hòa thượng Ân Sư.

Năm 1974, ngài làm Quản viện của Tu viện Chân Không, sau đó được Hòa thượng Viện chủ điều về làm Quản viện của Thiền viện Linh Quang, Cát Lở, Thành phố Vũng Tàu.

Sau năm 1975,  ngài làm Trụ trì Tu viện Chân Không đến năm 1986. Từ năm 1987, Hòa thượng nhập thất 03 năm tại Thiền viện Thường Chiếu. Đến năm 1994, Tu viện Chân Không được tái thiết và đổi thành Thiền viện Chơn Không. Hòa thượng kế thừa Hòa thượng Ân sư Trúc Lâm làm trụ trì tại đây đến năm 2000. Từ 2001 cho đến nay, Ngài là cố vấn Thiền viện Chơn Không và Ủy viên Ban quản trị Thiền phái Trúc Lâm.

 Vào 8h 10 phút ngày 20 tháng 01 năm 2014, Ngài đã dẫn bài kệ của thiền sư Viên Chiếu Việt Nam giảng cho phật tử Chánh Tịnh:

Thân như tường vách đã lung lay,
Đau đáu người đời luống xót thay.
Nếu đạt tâm không, không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện, mặc vần xoay.

 (Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.)

Vạn pháp luôn thay đổi, trong đó có tấm thân tứ đại theo định luật vô thường nên già yếu, nhưng riêng có cái không bao giờ đổi thay, suy lão. Chúng sanh vì sống với tâm lo sợ lao xao vọng động nên thật đáng thương. Nếu đạo hữu sống được với tâm không, cái tâm này vốn không hình mạo sắc tướng, thì chỉ tùy duyên mà sống. Nói xong, Thầy vui vẻ cười, rồi Chánh Tịnh xá chào ra về. sau đó, Hòa thượng bảo với thị giả Tôi hơi đau đầu rồi ngài lặng lẽ nhắm mắt nằm yên. Sang đến 11g30 ngày 21, Hòa thượng an tường ra đi.

Hòa Thượng có những dịch phẩm: Kinh Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ, Ngũ Đăng Hội Nguyên Tiết dẫn, Phật Tâm Luận, Vô Tướng Tụng giảng thoại. Ngoài ra, Ngài còn biên tập các bài giảng rải rác của Hòa thượng ân sư thành một tập sách tên Nhặt Lá Bồ Đề.

 

Giỗ Tổ lần thứ 41 - THANH TỊNH


TỔ SƯ GIẢNG VỀ -THANH TỊNH-

Lễ giỗ Tổ lần thứ 41

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Cung kính ngưỡng bạch Giác linh Tổ sư,
Cung kính ngưỡng bạch Hòa thượng Ân sư,
Kính bạch chư tôn thiền đức Tăng Ni,
Thưa toàn thể đạo tràng Phật tử
,

Hôm nay Lễ Giỗ Tổ lần thứ 41, để tưởng nhớ đến thâm ân giáo dưỡng và công đức huấn dục của Tổ sư, chúng con trích bài giảng về Thanh tịnh của Tổ sư, kính nguyện Giác linh Tổ sư từ bi chứng giám.

***

Định nghĩa:

Thanh là trong. Tịnh là sạch. Thanh tịnh là tánh trong sạch, không vướng cáu bẩn, nhơ nhớp, là tánh trầm lặng, không náo động ồn ào. Thanh tịnh là tánh đã được gạn lọc khỏi những gì xấu xa ô uế tạp nhạp, lăng xăng trong cõi đời ô trược này.

1. Thân thanh tịnh: Thân thể sạch sẽ, không chải chuốt son phấn. Áo quần phải luôn thay giặt, không rách rưới nhưng cũng không xa hoa, lòe loạt kiểu cách. Thức ăn uống giản dị, không rượu chè, trộm cướp, sát hại, dâm ô, hút sách, không cao lương mỹ vị. Chỗ nghỉ ngơi hợp vệ sinh, không giường cao nệm gấm, không trướng rũ màn che.

2. Khẩu thanh tịnh: Lời nói luôn luôn chân thật, không thêm không bớt, không ngọt như mật, không chua như dấm, không suồng sã bỡn cợt, không sừng sộ gầm thét, không hỗn hào độc dữ, không nặng nề sắc bén… Trái lại, lời nói trong trường hợp nào cũng phải trong sạch, ôn tồn, đúng đắn, lợi ích cho mọi người chung quanh.

3. Ý thanh tịnh: Ý là phần quan trọng, chi phối tất cả những lời nói, cử chỉ, hành động, đời sống của con người. Ý trong sạch thì đời sống dễ trong sạch, ý nhiễm ô thì đời sống bị xấu xa, hoen ố. Ý trong sạch là thế nào? Là không vẩn đục bởi những tánh tham lam giận dữ kiêu căng, si mê nghi ngờ. Mỗi khi ta suy nghĩ, tưởng nhớ một điều gì, mà tư tưởng ta không bị trộn lẫn bởi những tánh xấu nói trên, như thế là ý nghĩ được thanh tịnh. Ý ta không nhiễm mùi dục vọng, ý ta trong sáng như thủy tinh, vắng lặng như mặt nước hồ thu, sáng chói như mặt trời trí tuệ, thơm ngát hương từ bi, như thế là ý thanh tịnh.

4. Hành động thanh tịnh: Làm việc không vì danh lợi riêng mình. Người có hành động thanh tịnh không mưu mô tính toán, không ỷ mạnh hiếp yếu, không ỷ giàu hiếp nghèo, không ỷ thế hiếp cô. Người có hành động thanh tịnh không xu nịnh ai, không sợ hãi ai. Người có hành động thanh tịnh bao giờ cũng thẳng thắn, đường đường chính chính, không bao giờ có một hậu ý đen tối nào trong lúc làm việc.

Công năng của thanh tịnh:

Mặc dù con người có Phật tánh nhưng vẫn mê mờ và trôi lăn trong cảnh giới tối tăm đau khổ, là vì còn đầy dục vọng, nhiễm ô nên tánh Phật bị che lấp. Tánh Phật như nước trong, dục vọng như cáu bẩn làm vẩn đục nước trong. Muốn làm cho nước trong phải cần đến phèn, cũng thế muốn cho tánh Phật không bị nhiễm ô phải cần đến thanh tịnh. Thiếu đức tánh thanh tịnh thì dù cố công trì chí bao nhiêu trong việc tu hành cũng vô ích, như nấu cát mà mong thành cơm. Dù ta có làm bao nhiêu việc bố thí lợi tha mà tâm thiếu thanh tịnh thì những việc làm ấy cũng mất hết ý nghĩa cao quý và hiệu quả của chúng.

Người thanh tịnh sẽ có một đời sống nhẹ nhàng thanh thoát, tâm không bận bịu một ý nghĩ đen tối nào, thân khoan khoái dễ chịu. Người thanh tịnh đi đến đâu như mang theo một vùng ánh sáng, một làn khí trong, như tỏa ra một mùi hương mát dịu. Người thanh tịnh chẳng khác gì một đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Người Phật tử phải dưỡng tánh thanh tịnh như thế nào trong đời sống hàng ngày? Tánh chất của thanh tịnh bao gồm tất cả mọi phương diện của đời sống. Cho nên, muốn dưỡng tánh thanh tịnh, chúng ta không thể chú trọng đến phần vật chất mà bỏ phần tinh thần hay ngược lại chú trọng phần tinh thần mà bỏ phần vật chất. Đừng ngụy biện rằng: “Tu là cốt ở tâm, hình thức không đáng kể. Ta thanh tịnh ở trong lòng là đủ rồi”. Nói như thế là không nhận rõ ảnh hưởng mạnh mẽ của hoàn cảnh.

Hoàn cảnh thanh tịnh bên ngoài giúp ta dễ thanh tịnh bên trong. Tất nhiên trong cõi đời ô trọc này, khó có cảnh hoàn toàn thanh tịnh. Nhưng trong phạm vi tương đối, ta có thể tạo ra hay tìm kiếm một hoàn cảnh tạm gọi là thanh tịnh. Ta tập sống vệ sinh, điều độ, thứ tự; tập hành động theo lẽ phải. Ta tìm kinh sách có những tư tưởng trong sáng tiến bộ để đọc, tìm thầy bạn có đạo đức để học hỏi kết giao, tìm những cảnh chùa theo đúng chánh pháp để tới lui tu dưỡng.

Trong khi chúng ta tìm được một hoàn cảnh tạm gọi là thanh tịnh, hành động những việc có tính cách thanh tịnh rồi, chúng ta đừng vội thỏa mãn, yên trí là đã tiến được trên con đường thanh tịnh. Chúng ta cần phải đề phòng những ý nghĩ nhỏ nhiệm sâu kín, đen tối, xấu xa len lén chen vào trong những công việc tốt đẹp của chúng ta, làm cho chúng ta trở thành nhiễm ô. Sau đây là vài thí dụ thường thấy hàng ngày:

Chẳng hạn khi ta cho kẻ hành khất một vài đồng, vì lòng thành thật thương xót họ. Đó là một việc thiện quý báu. Nhưng nếu bên cạnh động lực chính ấy, ta còn có ý mong cho người chung quanh biết mình là kẻ nhân từ. Như thế là bố thí mà còn bị phiền não tham danh chen vào.

Khi ta giúp đỡ ai một điều gì mà ta mong ước một ngày kia người ấy sẽ giúp đỡ lại ta, như thế là làm việc lợi tha với động lực ích kỷ.

Khi ta đến chùa vì mục đích muốn hiểu đạo và cầu giải thoát, nhưng vì đến chậm hay thiếu chỗ, ta phải đứng lạy sau người, hay ngồi nghe giảng vào hàng ghế cuối hoặc ăn uống không được trọng đãi v.v… ta đâm ra buồn phiền trách móc: “Tôi như thế này mà nhà chùa để tôi đứng sau, ngồi dưới, xem thường, khinh dễ v.v…” Như thế là đến chùa để tìm thanh tịnh mà hóa ra lại đi ôm ấp thêm phiền não ô trược.

Những thí dụ trên cho chúng ta thấy hoàn cảnh thì thanh tịnh, việc làm tốt đẹp mà động cơ thì bất tịnh, nhiễm ô. Vậy trong đời sống hàng ngày, mỗi lúc nghĩ, mỗi lúc nói, mỗi lúc làm, nằm ngồi đi đứng, chúng ta phải luôn luôn tự xét xem mình đã thanh tịnh chưa. Trong trường hợp những nhiễm ô thô thiển dễ trừ, ta hãy mạnh dạn trừ ngay. Trong những trường hợp nhiễm ô sâu xa, vi tế khó trừ, ta hãy tập phép quán “nhị không” để phá trừ ngã chấp và pháp chấp. Làm được như thế là ta đã dưỡng tánh thanh tịnh của Phật mà mỗi chúng ta đều sẵn có.

***

Kính bạch Giác linh Tổ sư,

Giờ đây trước án tiền giác linh của Tổ sư, toàn thể hàng môn hạ pháp tử, pháp tôn chúng con nguyện một lòng vâng theo di huấn của Tổ, xin suốt đời nỗ lực tu học, noi gương Tổ sư và Hòa thượng Ân sư làm tròn sứ mệnh của người con Phật, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, ngõ hầu đền đáp phần nào công đức sâu dày của Thầy Tổ.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

LỄ TƯỞNG NIỆM GiỖ TỔ

LỄ TƯỞNG NIỆM GiỖ TỔ

 

PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG SƠ TỔ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ LẦN THỨ 705 được tổ chức lần đầu tiên tại Tổ Đình Thiền Viện Thường Chiếu.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

Cung kính ngưỡng bạch trên Hòa thượng Tông chủ Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử chứng Minh.

Cung kính ngưỡng bạch Thầy.

Kính bạch chư tôn đức tăng ni cùng toàn thể quý nam nữ Phật tử.

ANH 8122Hôm nay ngày mùng 1 tháng 11 năm Quý Tỵ, nhằm ngày 3 tháng 12 năm 2013, ngày kỷ niệm đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử nhập Niết-bàn. Ngài là một bậc Tổ sư khai sáng dòng Thiền nước Việt, là trang sử vàng son của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, một Thiền phái hoàn toàn Việt Nam ra đời vào đầu thế kỷ thứ 12 đời nhà Trần. Một vị vua anh hùng sáng đạo, rời bỏ ngai vàng xuất gia, hoằng pháp độ sinh, truyền xướng môn phong chư Tổ, hòa tấu khúc vô sanh ngút ngàn trên non Yên Tử làm vẻ vang hưng thịnh một thời, mãi cho đến ngày nay, khúc nhạc kia vẫn còn âm vang hùng hồn, là đỉnh cao ngất trời của những tâm hồn thoát tục siêu phương...  

 

Thiền môn Tổ ấn khơi niềm nhớ,

 Đối cảnh vô tâm ý chỉ Ngài.

 Giác Hoàng Điều Ngự còn vang bóng,

 Cư Trần Lạc Đạo Phú nào phai.

 

Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu ngọ 1258, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1.

Ngày 8 tháng 11 năm 1278, Ngài được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, ở ngôi 13 năm, làm Thái thượng hoàng 6 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi. Ngài qua đời ngày mùng 1 tháng 11 năm Mậu thân năm 1308.

Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch tội, Trần Nhân Tông lại là một vị vua anh minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng, nên từ năm 1258 đến 1287, quân Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt đều bị dẹp tan.

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, Ngài xuất gia tu hành tại núi Yên Tử và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, là đệ nhất sơ Tổ của dòng Thiền Việt Nam. Về sau Ngài được gọi cung kính là “Phật Hoàng”.

Ngài đã đem chỗ lãnh hội tông chỉ thiền tủy phản quan tự kỷ bổn phận sự bất tùng tha đắc từ nơi Thượng Sĩ Tuệ Trung, ứng dụng vào đời sống thường nhật, thể hiện cụ thể qua bài kệ Cư Trần Lạc Đạo:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

 

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên.

Đối đến thì ăn mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm.

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

 

Tinh thần "hòa quang đồng trần", của Thượng Sĩ được Ngài hấp thu và đúc kết thành tư tưởng "cư trần lạc đạo", trở thành "phong cách sống" của rất nhiều nhân vật văn hóa lịch sử đời Trần. Dưới triều đại của Ngài, từ quý tộc, cho đến những người thân phận thấp kém đều thừa hưởng đời sống an vui.

Vua Trần Nhân Tông vừa là Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm, vừa là nhà lãnh đạo tối cao, vừa là nhà ngoại giao kỳ đặc cả trong những tình huống ứng xử đối nội lẫn đối ngoại, là con hiếu thuận, là cha nghiêm từ, là anh độ lượng.., lại còn vừa lo nghĩ nhiều đại sự cho thế hệ mai sau.

Có thể khẳng định, vua Trần Nhân Tông là một tác gia văn học vừa tinh tế vừa đa phong cách. Một trong những đóng góp đặc biệt của Ngài chính là những tác phẩm lớn như Cư Trần Lạc Đạo PhúĐắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, góp phần quan trọng cho nền văn hóa Thiền tông Việt Nam.

Thiền phái Trúc Lâm do Ngài sáng lập và trở thành Trúc Lâm đệ nhất Tổ, kế thừa được tinh hoa của những tông phái Thiền Tông, để trở thành một Thiền phái mang đậm sắc thái dân tộc mà đặc điểm hàng đầu là tinh thần nhập thế lạc quan.

Trúc địch xuy chi, chấn hưng Việt Nam Thiền tông, vĩnh kiếp truyền đăng tục diệm.

Lâm manh khởi đích, khôi phục Yên Tử Tổ đạo, thiên niên đức hóa lưu phương.

Sáo trúc thổi lên, chấn hưng Thiền tông Việt Nam, muôn kiếp trao đèn nối đuốc.

Chồi rừng chổi dậy, khôi phục Tổ đạo Yên Tử, ngàn năm hương đức lưu truyền.

Vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ thứ 21, Hòa thượng Tôn sư Thượng Thanh hạ Từ với hoài bão khôi phục Phật giáo Thiền tông đời Trần, cụ thể qua các thiền sư trong đó hình ảnh tiêu biểu nổi bậc nhất là đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Hàng hậu học chúng ta vô cùng diễm phúc được thừa hưởng một di sản tinh thần vô giá này, đó cũng là nhờ công đức khôi phục Thiền Tông Việt nam của Hòa thượng Tôn sư.

Nhằm thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ và tri ân đến chư vị Tổ sư đời Trần, một số quý Phật tử với tâm nguyện của mình đã thỉnh được khối ngọc bích nhập về từ Canada, thuộc vùng mỏ ngọc nổi tiếng thế giới. Tượng được tạc theo tư thế Phật ngồi cao khoảng 1,6m, nặng hai tấn, khuôn mặt dát vàng. Đây là tượng Phật Hoàng bằng ngọc bích đầu tiên ở Việt Nam có kích thước lớn nhất.

Sau khi bức tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông hoàn thành, được đưa về an trí đầu tiên tại Thiền viện Thường Chiếu, cho hàng tăng ni Phật tử nơi đây ngày đêm chiêm bái. Thật là một niềm vinh hạnh lớn đối với Tăng Ni thiền phái Trúc Lâm nói riêng mà cũng là niềm vui chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Công đức này thật vô cùng to lớn, không thể dùng ngôn từ bút mực diễn tả hết được. Để bày tỏ tấm lòng tri ân vô hạn của quý Phật tử đã nhiệt tình kiến tạo nên tôn tượng này, cảm tạ mọi duyên lành đã thành tựu được Tôn tượng an trí nơi đây, xin nhất tâm hướng về ba ngôi Tam bảo, nguyện cầu chư Phật luôn gia hộ cho tất cả quý vị hữu duyên được sở nguyện tùy tâm, kiết tường như ý. Đồng thời, xin hướng nguyện cho mọi người chiêm bái tôn tượng đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông này được niềm tin bất thoái, phước huệ vẹn toàn.

Hôm nay, trong niềm hoan hỷ của người con Phật, lại một lần nữa, Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu vô cùng diễm phúc, hội đủ duyên lành được cung đón Tôn Tượng Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, an trí tại nơi đây và cũng là lần đầu tiên tổ chức lễ  kỷ niệm ngày nhập Niết-bàn của Ngài lần thứ 705. Toàn thể chư Tôn đức Tăng Ni trong đạo tràng, xin được kính cẩn nghiêng mình, bằng tất cả tấm lòng thành kính của mình, đốt nén hương lòng dâng lên cúng dường, ngưỡng nguyện chư Phật mười phương quang giáng đạo tràng, đức Phật Hoàng oai linh chứng giám cho tấm lòng thành của chúng con.

Trong giờ phút trang nghiêm thanh tịnh này, chúng con thành kính cung thỉnh Thầy, chư tôn thiền đức Tăng Ni, cùng toàn thể Phật tử hướng về Tôn tượng Đức Phật Hoàng nhất tâm trân trọng dâng hương cúng dường.

 

Nam Mô Phật Bổn  Sư Thích Ca Mâu Ni. 

 

PHẬT GIÁO TRÚC LÂM VỚI NHỮNG NÉT SON TRONG LÒNG DÂN TỘC

PHẬT GIÁO TRÚC LÂM VỚI NHỮNG NÉT SON TRONG LÒNG DÂN TỘC

Thích Thông Phương
***
Yentu00(Tham luận tại hội thảo “Phật Giáo Trúc Lâm Yên Tử và công tác qui hoạch, bảo tồn, phát huy những giá trị của Khu di tích Yên Tử hiện nay” do Học viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội kết hợp với GHPGVN tỉnh Quảng Ninh tổ chức nhân Đại lễ tưởng niệm lần thứ 705 ngày nhập Niết Bàn và khánh thành bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông vào ngày 02/12/2013 tại Hội trường lớn GHPGVN tỉnh Quảng Ninh)
***

 

I- ĐẾN VỚI MỌI TẦNG LỚP

Phật Giáo Trúc Lâm gắn liền với vua Trần Nhân Tông, một bậc tôn quí trong thiên hạ, nhưng sẵn sàng từ bỏ đời sống quyền quí, cao sang mà đi tu, chứng đạo, và đem ánh sáng chân lý giác ngộ để soi sáng lại cho tất cả mọi người khiến cùng được lợi ích. Từ trong triều đình cho đến người dân nơi thôn quê, với người trí thức thì Ngài giáo hóa theo trí thức; với người bình dân thì giáo hóa theo bình dân, cốt làm sao giúp cho người người chuyển hóa mê lầm, đi theo con đường hướng thiện, để xã hội càng đi lên.

Đức Phật Hoàng cũng như Thiền sư Pháp Loa, Thiền sư Huyền Quang, thường giảng kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, Truyền Đăng Lục, Đại Huệ Ngữ Lục…ở những chùa lớn gần thành thị cho hàng trí thức được nghe, đồng thời các Ngài cũng đem pháp Thập Thiện giáo hóa cho người dân dã, là thích ứng với từng căn cơ, không phân biệt quí tiện, sang hèn.

II- PHÁT HUY TRÍ TUỆ CHÂN THẬT NƠI MỖI NGƯỜI

Trong nhà Thiền có nói đến hai thứ Trí tuệ: Trí tuệ hữu sư và Trí tuệ vô sư. Trí hữu sư là trí do nghiên cứu, học hỏi, có thầy dạy, là trí tuệ tiếp thu từ bên ngoài mà được. Đây là trí tuệ phương tiện để dẫn vào Đạo, chưa phải là trí tuệ chân thật. Chính trí vô sư là trí tuệ do công phu tu hành chân thật mà tự tâm mở sáng. Không do ai dạy, không do từ nơi Thầy mà được. Như các nhà bác học chuyên tâm đi sâu một vấn đề, rồi bất chợt trong giây phút nào đó tự phát minh ra, tự sáng tỏ vấn đề ngoài chỗ suy nghĩ của mình.

 Cũng như Thiền sư Pháp Loa tham học với Sơ Tổ Trúc Lâm đã lâu, một hôm trình ba bài kệ đều bị Ngài lấy bút gạch bỏ hết, Sư trở về phòng đầu óc nặng trĩu, hết biết suy nghĩ gì nữa, bỗng nhìn thấy bông đèn tàn rụng, liền mở sáng trí tuệ vô sư. Lúc này không có ai dạy cả mà lại tự sáng tỏ, vượt ngoài chỗ suy nghĩ bình thường. Từ đó, Sư lấy đây làm chỗ sống và chỉ dạy cho người. Cho đến khi sắp tịch, Sư tóm tắt ý nghĩa qua bài kệ:

 

                        Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn
                        Tứ thập dư niên mộng huyễn gian
                        Trân trọng chư nhân hưu tá vấn
                        Na biên phong nguyệt cánh man khoan

        Dịch:
                        Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn
                        Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng
                        Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi
                        Bên kia trăng gió rộng thênh thang
                                                                    (HT. Thích Thanh Từ)

 

Bên kia trăng gió rộng thênh thang, là muốn ngầm chỉ đến chỗ sống của trí tuệ chân thật kia. Chỗ này cần phải người tự thể nghiệm, phải là hành giả thật sự. Từ đó mà truyền lại cho người. Chính đây là mạch sống của chư Tổ, giúp cho người học thêm vững niềm tin mà tiến bước, đồng thời chứng thật cho giá trị cao quí của Chánh pháp Như Lai. Chính chỗ này mà vua Trần Nhân Tông sẵn sàng bỏ hết những quyền quí, cao sang, danh vọng tột bực ở thế gian để vào Đạo, tìm ra lẽ thật hi hữu này.

 III- NÂNG CAO GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG THÊM Ý NGHĨA

 Tạo nhơn duyên cho người người sống có đạo đức, trí tuệ, sáng tỏ được tâm tánh chính mình, nhận rõ lẽ thật, giả nơi con người theo tinh thần Thiền Tông. Bởi chúng ta sống mà không rõ được gì là mình, gì là tâm, thì cuộc sống này thật sự là thiếu ý nghĩa sống. Vì mình là chủ cuộc sống nhưng mình là gì lại chưa sáng tỏ.

Ở đây thì các Ngài đã thật sự sáng tỏ được trí tuệ chân thật nên hiểu rõ lẽ thực nơi chính mình bằng chính trí tuệ do thực tu, thực ngộ mà hiện bày, nên chứng thực không nghi ngờ.

 Như Sơ Tổ Trúc Lâm đã thổ lộ qua bài kệ Xuân Vãn:

 

                    Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
                    Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
                    Như kim khám phá đông hoàng diện
                    Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.

    Tạm dịch:
                    Thuở bé đâu từng rõ sắc không
                    Xuân về rộn rã nức trong lòng
                    Chúa xuân nay bị ta khám phá
                    Ngồi lặng nhìn xem rụng cánh hồng.

 

Tức là lúc trước, khi chưa hiểu đạo, thì tâm còn bị ngoại cảnh chi phối nên mỗi độ xuân về, lòng cũng theo cảnh mà rộn rã, động theo cảnh xuân, không làm chủ được. Nhưng nay nhờ công phu tham thiền, Ngài đã nhận ra chúa xuân, tức sáng tỏ được ông chủ chân thật muôn đời nơi mình, là thật sự biết rõ chính mình. Giờ đây, Ngài đã giải đáp được chính xác cho câu hỏi: “Cái gì là chính mình”, cuộc sống bây giờ mới sống có ý nghĩa và soi sáng lại cho nhiều người.

 IV- ĐEM LẠI NIỀM TỰ TIN NƠI MỖI NGƯỜI

 Là chỉ ra chân lý giác ngộ vốn có sẵn nơi mỗi người, vì ai ai cũng có tâm, tức là đều có khả năng giác ngộ để vươn lên khỏi cái chúng sanh mê lầm này, chớ không phải cúi đầu chấp nhận làm chúng sanh mãi mãi. Như trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo có câu:

                     Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
                    Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
                    Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
                    Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền

 

Nghĩa là kho tàng của báu Tánh Giác vốn có sẵn trong Tâm của mỗi người, cần tự nhận trở lại nơi mình, không phải tìm cầu xa xôi, cũng không phải tự khinh mình, vì: “Kia đã là trượng phu, thì ta đây cũng vậy”.

 Và Thiền là tâm thanh tịnh sáng ngời ngay trước mọi cảnh mà không bị cảnh ràng buộc, che mờ. Là sống ngay trong đời mà không mất tâm thiền. Là đem Đạo đến gần với người cư sĩ còn sống trong trần mà vượt lên khỏi trần, không phải lìa trần mới có Đạo.

 Cũng như trong bài phú Cư Trần lạc Đạo ở hội Thứ nhất đã trình bày:

 

                    Mình ngồi thành thị
                    Nết dùng sơn lâm

 

Là ở thành thị nhưng không bị thành thị làm ô nhiễm, không bị che mờ tánh sáng suốt. Như vậy là người cư sĩ cũng có thể ở trong trần mà vươn lên khỏi trần, như hoa sen trong bùn mà nhô lên khỏi bùn. Cũng như Thượng sĩ Tuệ Trung, một vị tướng, một cư sĩ sống trong đời thường nhưng tâm thiền thật sáng tỏ, đời sống thật thanh thoát đầy đạo lý, trí tuệ thật siêu xuất, khiến cho nhiều vị xuất gia còn phải đến tham học với Ngài.

V- TÓM KẾT

Đời Trần với Phật Giáo Trúc Lâm đã làm nổi bật cho nền Phật Giáo nước nhà trên nhiều phương diện và để lại những bài học quí giá cho chúng ta ngày nay rất có giá trị.

 

Mỗi người ở một góc nhìn và phát hiện ra những nét hay của riêng mình để cùng đóng góp chung lại mà làm rạng rỡ cho sự nghiệp quí báu của Tổ tông, đồng thời khiến cho bạn bè trên thế giới tìm hiểu càng thêm kính quí.

Yên Tử được gắn liền với Phật Giáo Trúc Lâm, với dòng Thiền của nước Việt và tên tuổi của vị Tổ, là ông vua nước Việt, một danh nhân của các thời đại, là một đại nhân duyên thật hi hữu, rất cần được tôn trọng và phát huy đúng mức.

 Tóm lại, học người xưa để xét lại ngày nay, và phát huy những điều hay tốt, khiến cho sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp, cho ánh sáng chân lý giác ngộ của Đức Phật ngày càng soi sáng thêm trên thế gian này, giúp cho cuộc đời thêm an vui, bớt đau khổ, là trách nhiệm chung của những người con Phật.

Chúng tôi xin được chia sẻ một góc nhìn về Phật Giáo Trúc Lâm để góp phần cho ngày lễ kỷ niệm Đức Phật Hoàng viên tịch được thêm nhiều ý nghĩa.
Kính chúc hội thảo thành công tốt đẹp!

 

DIỄN VĂN LỄ AN VỊ PHẬT TẠI TVTL CHÁNH GIÁC

DIỄN VĂN LỄ AN VỊ PHẬT TẠI TVTL CHÁNH GIÁC

hinh051 Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!

Kính Bạch trên Hòa Thượng Tôn Sư chứng minh.

Kính bạch chư Hòa Thượng, chư Tôn Đức Tăng – Ni

Kính thưa chư vị khách quý, lãnh đạo chính quyền tỉnh và các cấp địa phương.

Kính thưa chư Thiện Tín Phật Tử gần xa.

Cách đây hơn 18 tháng, lễ đặt đá xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác được long trọng cử hành cũng tại đây vào ngày mùng 8 Tháng 4 ÂL. Rồi qua ngày 18 tháng 7 ÂL mới chính thức khởi công động thổ xây dựng. Trước tiên là 3 hạng mục: chánh điện; lầu chuông; lầu trống. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, kinh tế eo hẹp, nhưng với sự nhiệt tâm ủng hộ của Giáo hội, của lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương, của chư Tôn đức, huynh đệ trong tông môn và nhất là chư thiện tín gần xa, gồm mọi thành phần đóng góp từ vật chất  đến tinh thần. Trong đó có đội thợ của anh Hùng đã làm rất nhiệt tình. Được đầy đủ những duyên lành cộng lại, giúp cho Thiền viện hiện nay có ngôi chánh điện tương đối kín đáo để thỉnh Tôn đức Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu và hai vị Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền vào an vị. Đồng thời lầu chuông, lầu trống cũng tương đối gần hoàn chỉnh để thỉnh chuông, trống vào sử dụng.

Tuy công trình chưa thật hoàn chỉnh, nhưng vì Hòa Thượng Tôn Sư tuổi cao và có chút bệnh duyên đang tịnh dưỡng và hiện thời sức khỏe Hòa Thượng đang ổn định, chúng tôi trình Hòa Thượng Trưởng ban Quản trị Thiền phái Trúc Lâm được làm lễ an vị sớm, để tiện thỉnh Hòa Thượng Tôn Sư về chứng minh và thấy qua Phật sự có ý nghĩa trọng đại này.

Dưới sự chứng minh và hỗ trợ của Ban Quản Trị, Phật sự được làm trong tinh thần hòa hợp để cùng dâng lên Hòa Thượng, nhằm bày tỏ lòng thành hướng về quê hương của Ngài, đồng thời cũng tạo duyên lành cho Tăng Ni Phật tử gần xa có thêm một nơi nữa để trở về nương tựa tu học.

Vì tôn tượng Đức Phật được thỉnh về muộn hơn ngoài ý định, việc tổ chức phải tiến hành gấp rút, công tác chuẩn bị chưa được chu đáo, nhưng hôm nay lại được sự có mặt của trên chư tôn Hòa Thượng, cho đến chư vị khách quí, và  Phật tử như thế này, là niềm khích lệ lớn lao cho chúng tôi.

Và theo dự định của Ban Hưng Công, sau lễ An vị tôn tượng Phật và Bồ Tát, sẽ khởi công tiếp xây dựng nhà Tổ, và còn lại các hạng mục Tăng đường, trai đường, khu nhà bếp, khu nhà khách nữ, cổng Tam quan nếu đủ duyên hoàn thành thì sẽ khánh thành giai đoạn I. Sau đó tiếp tục đến các hạng mục còn lại.

Kính mong tiếp tục được sự quan tâm hỗ trợ của chư tôn liệt vị và Phật tử gần xa khiến cho Phật sự chóng viên thành.

Nơi đây chúng tôi luôn nghĩ đến để tạo cho mọi người, mọi tầng lớp đều có thể đóng góp vào Phật sự, để ai đến đây cũng thấy vui vì mình cũng có phần gieo trồng phước điền trong đó, và như là trở về ngôi nhà chung.

Và giờ này, chúng con một lòng cúi đầu hướng về Hòa Thượng Tôn Sư kính lễ, ngưỡng mong Thầy chứng minh và hộ niệm cho chúng con hoàn thành Phật sự này. Chúng con đồng nhất tâm cầu nguyện Tam Bảo gia bị cho Thầy sức khỏe được ổn định, trí tuệ viên minh, thành tựu các sở nguyện.

Nguyện cho chư Tôn Đức pháp thể an khang, chơn tâm thường sáng.

Nguyện cho chư vị khách quí cùng tất cả Phật tử gần xa thân tâm thường an lạc, duyên lành ngày càng tăng trưởng

Nguyện cho duyên lành hôm nay đồng đem đến niềm vui tùy hỉ cho tất cả.