headertvtc new


   Hôm nay Thứ tư, 17/12/2025 - Ngày 28 Tháng 10 Năm Ất Tỵ - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mong
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Xá Lợi Phất

 XÁ LỢI PHẤT

TRÍ TUỆ ĐỆ NHẤT

1- TRƯỚC VÀ SAU ĐẢN SANH

Tại nước Ma-kiệt-đà ở Nam Ấn Độ, cách thủ đô Vương Xá khoảng hai ba dặm, có một thôn trang tên Ca-la-tý-nỏa-ca, rừng đẹp trúc cao, núi xanh sông biếc, thật là một địa phương u tịnh, và đó cũng là quê hương của ngài Xá-lợi-phất.

Xá-lợi-phất sanh trong gia đình Bà-la-môn, thân phụ Đề-xá là luận sư nổi danh trong giáo đoàn Bà-la-môn. Thân mẫu khi mang thai Ngài, trí tuệ trội vượt hơn mọi phụ nữ tầm thường (Theo truyền thuyết đó là do ảnh hưởng của thai nhi).

Em trai thân mẫu là Câu-hy-la, cũng rất giỏi nghị luận, nhưng mỗi khi cùng với bà chị đàm đạo, đều bị cạn lời bí lối, chẳng dám cầm cự phải thoái lui. Ông xấu hổ rời nhà ra đi, biết rằng đứa bé trong bụng chị mình ngày sau sẽ là một người đại trí tuệ, nếu tự mình không tiến hơn, mai sau cậu chẳng bằng cháu, thiên hạ sẽ cười cho thối óc. Do đó, ông đi khắp nơi tìm thầy học hỏi, nghiên cứu miệt mài đến nỗi móng tay ra dài mà không dám nghỉ để cắt. Người đương thời đặt cho ông danh hiệu là Trường Trảo Phạm Chí (Sau này khi Xá-lợi-phất quy y Phật, ông cũng quy y theo làm Sa-môn).

Vào năm tám tuổi, Xá-lợi-phất đã có thể giải suốt mọi thư tịch. Thời ấy, trong nước Ma-kiệt-đà, có hai anh em trưởng giả, anh tên Cát-lợi, em tên A-già-la, mở tiệc đãi đằng vua quan, thái tử, các vị luận sư… ca vũ nhạc kịch, luận cổ bàn kim. Đại hội quy định, ai ngồi theo chỗ đó, chỉ có cậu bé Xá-lợi-phất trèo lên bảo tọa của luận sư cao tột, bên cạnh không người nào dám ngồi, mà chẳng hề sợ sệt. Ban đầu, mấy ông đại luận sư cho đó là một tên thiếu niên vô tri, không thèm đếm xỉa đến, sai các đệ tử nhỏ tuổi đến thù đáp, nhưng gặp Xá-lợi-phất lời lẽ khúc chiết, nghĩa lý thích hợp, làm kinh ngạc bốn phía. Lúc ấy các đại luận sư mới khâm phục, khen ngợi rối rít, quốc vương cũng đẹp dạ, đem luôn một thôn trang phong tặng Xá-lợi-phất.

Ấu thơ tám tuổi đã xuất đầu lộ diện trong trường hợp như thế, phụ thân tuy nổi danh học giả, cũng tự cảm nhận: Thông minh tài trí của mình không bằng cậu con yêu.

2- LÃO SƯ CHÂN CHÁNH

Đến tuổi trưởng thành, người trong nước đều biết đại danh Xá-lợi-phất. Dáng người cao lớn, dung mạo thanh tú, mắt sáng như sao, tay dài quá gối, Xá-lợi-phất thừa hưởng truyền thống học giả của phụ thân nên cũng rất có phong độ học giả. Giới học thuật đương thời không ai không biết đến chàng thanh niên hậu sanh khả úy này.

Đến năm hai mươi tuổi, Xá-lợi-phất từ giã quê hương phụ mẫu, lên đường tìm sư học đạo. Ban đầu, chàng đến bái yết vị Bà-la-môn nổi danh San-xà-dạ làm thầy, nhưng học chưa được bao lâu, chàng cảm thấy học vấn của thầy không đủ đáp ứng cho sức tìm hiểu của mình, bèn tính chuyện cáo từ. Bạn đồng học lúc bấy giờ, chỉ có Mục-kiền-liên là tâm giao, Xá-lợi-phất đem ý định của mình nói cho bạn nghe, và Mục-kiền-liên cũng cảm thấy như vậy. Cả hai bèn quyết định ly khai San-xà-dạ, thành lập riêng một học đoàn, chiêu tập đồ đệ. Hai chàng tuổi trẻ yên chí rằng trên đời này không có người trí thức nào sánh kịp mình, và cũng chẳng có ai đủ tư cách làm thầy mình.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên tuổi tác tương đương, sức học và tư tưởng cũng gần gũi, cả hai đều có chí nguyện tìm cầu chân lý, nên tình cảm rất hòa hợp. Sức tự tu và dạy học, học giả trên toàn cõi Ấn Độ không có ai vừa mắt hai chàng.

Một ngày nọ, trên con đường đến thành Vương Xá, Xá-lợi-phất gặp một vị đệ tử Phật, Tỳ-kheo A Thị Thuyết. A Thị Thuyết là một trong năm vị Tỳ-kheo đầu tiên quy y Phật, Ngài đã trải qua nhiều năm khổ hạnh, đến khi nghe Phật nói pháp Tứ Đế, liền chứng Thánh quả. Ngài có thái độ trang nghiêm, đi đứng oai nghi, Xá-lợi-phất một phen thấy qua trong lòng sanh kinh ngạc, không thể ngăn nổi sự tò mò đến trước hỏi luôn:

- Xin lỗi, cho phép tôi hỏi thăm đạo giả, chẳng hay Ngài tên gì? Hiện ở đâu ?

- Đa tạ! Tôi tên A Thị Thuyết, ở Trúc Lâm tinh xá ngoài thành không xa.

- Thầy của Ngài là ai? Bình thường dạy Ngài đạo lý gì?

Xá-lợi-phất khi hỏi câu này thật là khẩu khí của một trưởng giả. A Thị Thuyết chậm rãi trả lời:

- Thầy tôi là bậc đại Thánh Thích-ca Mâu-ni xuất sanh từ dòng họ Thích. Ngài dạy về chơn lý của vũ trụ nhơn sanh, kẻ ít học như tôi không thể lãnh hội trọn vẹn, nhưng tôi còn nhớ, đạo lý của Ngài thường giảng là:

                        Các pháp do nhân duyên sanh
                        Các pháp do nhân duyên diệt.

Cũng dạy rằng: “Các hạnh vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui.” Đối với lời dạy của bậc Đạo sư, thật khó diễn tả được hết cảm kích của chúng tôi.

Xá-lợi-phất được nghe danh hiệu Phật-đà và giáo pháp của Ngài, dường như trời long đất lở, như sáng ngời mặt trời trước mắt, tất cả mối nghi ngờ về vũ trụ nhân sinh đều biến mất, chàng đứng bên đường đàm đạo với A Thị Thuyết như là bạn tri kỷ trăm năm, và sau cùng ước hẹn, sẽ đến bái phỏng đức Phật.

Xá-lợi-phất về đến nơi, Mục-kiền-liên thấy bộ dạng hân hoan của bạn, liền hỏi thăm:

- Xá-lợi-phất, có việc gì trông bạn có vẻ cao hứng đến thế?

- Mục-kiền-liên! Đây là dịp cao hứng đệ nhất trong đời tôi, thật hoan hỷ, tôi báo cho bạn biết, tôi đã tìm gặp vị Lão sư của chúng ta.

- Bạn nói gì thế, ai là người có thể làm thầy chúng ta?

- Phật-đà! Đó chính là đức Phật-đà!

Xá-lợi-phất liền đem những lời của A Thị Thuyết về đức Phật và giáo pháp, kể lại cho Mục-kiền-liên nghe, người kể, người nghe đều không ngăn được xúc động, bất giác rơi lệ.

Pháp nhân duyên, người bình thường nghe sẽ không lãnh hội được ra sao, nhưng đối với người tìm cầu chân lý như Xá-lợi-phất, thì phải ném hết những công phu tu hành từ nhiều năm nay. Có thể nói không lầm rằng người nhận thức được pháp nhân duyên mới có thể nhận thức được Phật pháp.

Ngày hôm sau, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đem hai trăm đồ chúng, đồng đến Trúc Lâm tinh xá, quy y dưới tòa đức Phật. Đức Phật cũng rất hoan hỷ, Ngài biết rằng chân lý mình chứng ngộ đến hôm nay mới gặp đúng người có thể tiếp thọ, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cũng cảm thấy mình đã gặp đúng bậc minh sư.

3- GIÁM ĐỐC CÔNG TRÌNH KỲ VIÊN

Sau khi Xá-lợi-phất quy y Phật, lực lượng Tăng đoàn bắt đầu tăng thêm. Đức Phật rất tin dùng Xá-lợi-phất. Người thứ nhất vâng lãnh sứ mạng sang phương Bắc hoằng pháp, và trông coi việc xây cất Kỳ Viên tinh xá, là Xá-lợi-phất.

Trúc Lâm tinh xá nằm ở Ma-kiệt-đà, Nam Ấn Độ, còn trong thời gian Phật thành đạo hai năm đầu, ở phương Bắc không có một căn cứ để thuyết pháp. Nhân duyên kỳ ngộ, Tu-đạt trưởng giả ở thành Vương Xá nước Kiều-tát-la (Kosala) phương Bắc, nhân đến phương Nam thăm người quen, được gặp thánh nhan của Phật, liền phát tâm quy y, và phát tâm kiến lập một tinh xá ở phương Bắc cúng dường Phật để khắp rưới nước cam lồ.

Trưởng giả Tu-đạt dùng vàng ròng trải khắp mặt đất mua vườn hoa của Thái tử Kỳ-đà làm nơi kiến tạo tinh xá. Ông thỉnh Phật cử cho một người thiết kế và trông coi công việc. Đức Phật biết chính Ngài không có nhân duyên đến phương Bắc, ở đấy toàn là ngoại đạo. Đến đấy không những chỉ hướng dẫn việc xây cất tinh xá, mà còn phải hàng phục chúng ngoại đạo. Vì thế, Xá-lợi-phất cùng Tu-đạt đến thành Xá-vệ trước.

Tinh xá vừa khởi công không bao lâu, quả không lầm, ma nạn khởi lên. Nhiều nhóm ngoại đạo ganh ghét sự phát triển của Phật giáo, đến yêu cầu Tu-đạt bỏ ý định xây dựng tinh xá cúng Phật, thậm chí bảo ông đừng tín ngưỡng Phật-đà.

Tu-đạt là người đã lãnh thọ pháp ân của Phật, dù bất cứ thế nào ông cũng không nghe theo lời của ngoại đạo, họ bèn nghĩ đến việc biện luận với đệ tử Phật, ngài Xá-lợi-phất. Họ chắc rằng đánh đổ Phật giáo, để làm cho Tu-đạt tỉnh ngộ. Tu-đạt nghe qua tin này rất kinh sợ, nghĩ thầm một mình ngài Xá-lợi-phất làm sao tranh biện nổi với từng ấy ngoại đạo?

Ông rầu rĩ báo cho Xá-lợi-phất biết ý định của bọn họ, trái lại Ngài rất hoan hỷ, đây chính là cơ hội tốt nhất để Ngài thay Phật tuyên dương giáo pháp.

Đã ước định về thời gian, địa điểm mở cuộc đại hội biện luận, ngoại đạo cử mười vị luận sư danh tiếng, bên nhà Phật chỉ có một ngài Xá-lợi-phất. So sánh về lực lượng, bên Phật giáo tuy ít, nhưng một mình ngài Xá-lợi-phất có thể hạ ngàn vạn ngoại đạo. Xá-lợi-phất là đệ tử vô tỷ trong hàng đệ tử Phật, lại xuất thân từ gia đình Bà-la-môn, ông nội, phụ thân đều là những luận sư danh tiếng trong Bà-la-môn giáo, đều là học giả bậc nhất của toàn cõi Ấn Độ. Học vấn của Xá-lợi-phất đã thừa hưởng truyền thống danh giá đó, Ngài tinh thông tất cả kinh điển ngoại đạo, và hiện tại là người đắc Thánh quả. Chọn Xá-lợi-phất để tranh luận với ngoại đạo, thiệt là không còn ai hơn.

Trong trường biện luận, khỏi phải nói Xá-lợi-phất thắng lợi hoàn toàn, có một số ngoại đạo tiếp thu chân lý, đều xin nhờ Xá-lợi-phất giới thiệu, trở lại quy y bậc đại thánh. Đức Phật chỉ ngồi ở phương Nam mà ánh sáng oai đức đã chiếu trùm đến phương Bắc.

Phen này Xá-lợi-phất hướng dẫn trên cả ngàn vạn người quy y Phật, Tu-đạt đến lúc này mới nở lỗ mũi, càng khâm phục Xá-lợi-phất, càng cảm kích oai đức của Thế Tôn.

Việc xây cất Kỳ Viên tiến rất mau, theo thiết kế của ngài Xá-lợi-phất, trù liệu có mười sáu giảng đường dành cho đại hội giảng kinh, lại có mười sáu tiểu đường, chia ra làm phòng ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho… Ngoài ra còn có sân vận động, ao tắm, suối nước giặt giũ…

Lúc tinh xá sắp hoàn thành, Xá-lợi-phất nói với Tu-đạt:

- Trưởng giả! Ông nhìn xem, trên trời xuất hiện những gì kia?

- Thưa Tôn giả! Con chẳng thấy có gì cả – Tu-đạt thất vọng trả lời.

- Chẳng có gì lạ, mắt thường không thể thấy được những biểu hiện, bây giờ ông nương sức thiên nhãn của tôi, xem lại một lần nữa.

- A! Tu-đạt vui mừng kêu lên: - Thưa Tôn giả con thấy có nhiều cung điện trang nghiêm rực rỡ.

- Đó là cung điện của sáu cõi trời Dục giới, vì ông cúng dường tinh xá cho Phật thuyết pháp, tinh xá tuy chưa hoàn thành, nhưng cung điện của ông trên sáu cõi trời đã sớm dành sẵn cho ông.

- Nhưng, trong sáu cõi trời ấy nhiều những cung điện đến thế, con phải ở cõi trời nào mới tốt?

- Cõi trời Đao Lợi thọ mạng rất lâu, biết tu hành, siêng năng trong Phật đạo, khó đọa lạc. Xá-lợi-phất giải thích cho Tu-đạt nghe.

- Vậy sau này con nhất định nguyện về cõi Đao Lợi.

Khi Tu-đạt nói xong, những cung điện kia dần dần ẩn mất, chỉ có cung điện của cõi trời Đao Lợi sáng rực đẹp đẽ hiện ở không trung. Tu-đạt thấy rồi rất mừng rỡ, trong cuộc bình sanh chưa bao giờ được như vậy.

4- KHÔNG THOÁI CHUYỂN TÂM ĐẠI THỪA

Nhân chuyện trưởng giả Tu-đạt cúng dường tinh xá cho Phật, nhờ thần lực thiên nhãn của ngài Xá-lợi-phất thấy được cung điện cõi trời. Về đôi mắt của tôn giả, trong thời quá khứ tu nhân sáu mươi kiếp về trước khi Ngài tu khổ hạnh, có một sự kiện liên quan đến đôi mắt ấy.

Xá-lợi-phất phát tâm tu đạo Bồ-tát hành hạnh bố thí của Đại thừa, Ngài không những nguyện đem nhà cửa, ruộng vườn, tài sản… những vật sở hữu nơi thân vui lòng bố thí, tối hậu cho đến thân thể, mạng sống, cũng không tiếc một mảy may, nguyện bố thí cho người.

Phát tâm nguyện chơn thiết như vậy, làm kinh động trời đất, bèn có một Thiên nhơn đến thử đạo tâm của Ngài.

Thiên nhơn biến thành một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, ngồi chờ trên đường Xá-lợi-phất thường đi qua. Thanh niên vừa thấy Ngài đi đến bèn lớn tiếng khóc rống, Xá-lợi-phất thấy vậy bất nhẫn, đến trước mặt an ủi hỏi han:

- Úy da! Này cậu kia, vì sao ngồi đây khóc lóc trông thương tâm như vậy?

- Ông đừng hỏi lôi thôi, nói cho ông nghe cũng chẳng được gì.

- Tôi là Sa-môn học đạo, phát nguyện cứu giúp khổ nạn cho chúng sanh. Anh cần gì nếu tôi có sẵn, tôi sẽ giúp anh mãn nguyện.

- Ông chẳng thể giúp tôi được đâu, tôi khóc đây chẳng phải vì thiếu tài vật thế gian, mà vì mẹ tôi mang bệnh không thể trị được, thầy thuốc nói cần phải có con mắt của người tu để hòa thuốc, bệnh mẹ tôi mới lành. Con mắt của người đời đã khó kiếm, con mắt của người tu làm sao chịu cho tôi? Nghĩ đến mẹ già rên rỉ trên giường bệnh chờ thuốc, tôi bất chợt đau đớn mà phát khóc đó ạ!

Chuyện đó đâu khó gì, tôi vừa nói với anh, tôi là Sa-môn kia mà, tôi sẽ bố thí cho anh một con mắt để cứu bệnh nan y cho mẹ anh.

Thanh niên vui mừng nhảy lên.

- Ý! Ngài bố thí cho tôi một con mắt?

- Tất cả tài sản của tôi đều bố thí hết, chính lúc muốn tiến một bước trên hạnh Đại thừa tôi nguyện đem thân ra bố thí. Đang khổ sở vì chẳng gặp ai nhận, nay gặp lúc anh đang cần, tôi được mãn nguyện tâm đạo, tôi rất vui mừng cảm ơn anh, anh nên tìm cách lấy con mắt của tôi đi.

Sáu mươi tiểu kiếp trước trong tâm thầy tu Xá-lợi-phất nghĩ rằng: “Ta có hai con mắt, bố thí cho người một con, còn một con mắt cũng đủ thấy đường, đối với mình cũng chẳng trở ngại chi”.

Ngài bảo thanh niên tìm cách lấy con mắt đi, thanh niên không chịu, nói:

- Thiệt chẳng nên, làm sao tôi dám cưỡng đoạt con mắt của ông? Như lời ông phát nguyện thì ông tự móc mắt ra mà cho tôi.

Xá-lợi-phất nghe nói có lý, liền quyết tâm, dũng mãnh chịu đau, lấy tay móc ngay con mắt bên trái ra, đưa tận tay thanh niên và nói:

- Đa tạ anh đã giúp tôi thành tựu tâm nguyện, anh hãy cầm lấy!

Thanh niên cầm con mắt la lên:

- Hỏng bét! Ai biểu ông móc con mắt trái ra đây. Bệnh của mẹ tôi, phải dùng con mắt bên phải mới tốt.

Xá-lợi-phất nghe nói, thiệt là hỏng tuốt, Ngài tự trách mình không hỏi kỹ rồi hãy móc mắt, bây giờ làm sao? Cho con mắt bên trái, còn con mắt bên phải để xài, nếu cho luôn con mắt bên phải sẽ không thấy gì ráo. Thật đáng kính phục, Xá-lợi-phất không bao giờ trách người, Ngài nghĩ tiếp, phát tâm phát cho triệt để, cứu người cũng cứu triệt để, khó gặp được người nhận thí để thành tựu đạo hạnh của mình, nên móc con mắt bên phải cho người mới xong. Xá-lợi-phất nghĩ như vậy rồi bèn an ủi thanh niên:

- Anh đừng nóng ruột, vừa rồi tại tôi hấp tấp không kịp hỏi nên móc lộn con mắt, bây giờ tôi biết rằng, thân thể này là hư huyễn vô thường. Tôi còn con mắt bên phải, tôi xin móc luôn cho anh làm thuốc chữa bệnh cho mẹ anh.

Xá-lợi-phất nói xong, lại quyết tâm một phen nữa, mạnh dạn chịu đau móc luôn con mắt bên phải cho thanh niên nọ.

Thanh niên cầm con mắt Xá-lợi-phất không thèm nói một lời cám ơn, đưa con mắt lên ngửi một cái, quăng luôn xuống đất, mắng:

- Ông là thầy tu cái gì? Con mắt hôi rình khó ngửi, làm sao nấu thuốc cho mẹ tôi dùng!

Thanh niên mắng xong còn lấy chân chà lên con mắt của Xá-lợi-phất.

Tuy không thấy, nhưng lỗ tai còn thính, Ngài nghe lời thanh niên mắng mỏ, nghe tiếng chân thanh niên chà đạp con mắt của mình, Ngài thở dài, nghĩ thầm: “Chúng sanh khó độ, tâm Bồ-tát khó phát, ta chẳng dám vọng tưởng tiến tu Đại thừa, ta nên quay lại chú trọng việc tu hành tự lợi thôi!”

Trong tâm Ngài vừa khởi ý niệm ấy, tức thời trên không trung xuất hiện rất nhiều Thiên nhơn nói với Xá-lợi-phất:

- Tu đạo giả! Ngài đừng chán nản, người thanh niên lúc nãy là do Thiên nhơn chúng tôi đến thử thách Bồ-tát hạnh của Ngài, Ngài phải dũng mãnh tinh tấn lên, theo như tâm nguyện mình mà tu học.

Xá-lợi-phất nghe nói rất xấu hổ, tâm Bồ-tát lợi tha khởi phát trở lại, ngay lúc ấy thành tựu được đạo tâm bất thoái.

Từ sáu mươi tiểu kiếp đến nay, Xá-lợi-phất không ngừng học đạo, đời này được gặp Phật, chứng Thánh quả, do đó được Thiên nhãn thông.

5- THỌ THỨC ĂN BẤT TỊNH

Xá-lợi-phất là thủ tọa trong hàng đệ tử Phật, đại trí đại tuệ, thần lực siêu quần, Ngài đối với đức Phật thật là bách y bách thuận, đối với lời chỉ dạy của Phật chưa từng cãi lời.

Đức Phật đối với các đệ tử, tín nhiệm nhất là Xá-lợi-phất, sau ngày thành đạo, lần trở về cố hương Ca-tỳ-la thứ nhất, gặp La-hầu-la muốn xuất gia, đức Phật bảo ông bái Xá-lợi-phất làm thân giáo sư, theo Xá-lợi-phất thọ giới Sa-di.

Một hôm, Xá-lợi-phất dắt Sa-di La-hầu-la đi khất thực trở về, đức Phật thấy vẻ mặt của La-hầu-la không vui, biết trong tâm ông có chuyện bất bình, bèn gọi ông đến gần, hỏi ông trong lòng bất mãn việc gì.

Sa-di La-hầu-la cúi đầu tỏ ý không vui, giọng nói bất mãn:

- Phật-đà! Con là Sa-di, đáng lẽ không nên nói lỗi bậc Thượng tọa, nhưng nếu không nói thì không ai biết hoàn cảnh của Sa-di chúng con.

- Sự việc như thế nào? Ông giải thích ta nghe.

- Phật-đà! Các vị Thượng tọa và Trung tọa dẫn chúng con ra ngoài thành khất thực, tín chúng cúng dường các vị ấy toàn những món ngon thượng đẳng, còn hàng Sa-di sơ học chúng con, chỉ bố thí toàn cơm trộn xác mè, rau rừng lộn lạo. Thân thể con người đối với việc ăn uống đâu có phân biệt tuổi tác và giới hạnh, đều có nhu cầu giống nhau. Các vị trưởng lão ngoài sự thọ dụng của riêng mình, không có lòng từ bi đoái hoài đến chúng con, khiến tín chúng cúng dường sanh tâm phân biệt.

- Việc ấy đâu đáng gì để nói, chỉ có chút tiểu sự mà ông không thể nhẫn!

- Phật-đà! Xin Ngài từ bi đừng trách mắng chúng con, được ăn dầu mè và tô lạc mới có thể tăng trưởng khí lực, thân thể khỏe mạnh mới có thể an tâm tinh tấn tu hành, còn chúng con mỗi ngày ăn xác mè và rau rừng, dinh dưỡng không đủ, lâu ngày thân thể mỏi mệt, thường chẳng có thể chuyên tâm tu trì.

Đức Phật nghe La-hầu-la nói, cũng công nhận là đúng, tuy nhiên Ngài cũng răn dạy:

- La-hầu-la! Ông rời hoàng cung gia nhập Tăng đoàn là vì thọ sự hảo cúng dường phải không?

- Thưa không! Bạch Thế Tôn, con vào Tăng đoàn là vì để học đạo tu hành.

- Vậy thì ông mới nói chuyện gì đó? Như nếu nghĩ đến việc tu hành, thì khi thọ nhận của tín thí một hạt mè, một hạt cơm cũng thấy là đầy đủ. Ông đi mà lo tu hành, đừng quá quan tâm đến việc ăn uống.

Tuy dạy bảo La-hầu-la như thế, nhưng Ngài cũng biết tín chúng khi cúng dường có khởi tâm phân biệt, trong lòng không vui. Ngài kêu Xá-lợi-phất đến sau khi bảo La-hầu-la lui ra, hỏi:

- Xá-lợi-phất, hôm nay ông thọ đồ ăn bất tịnh, ông biết không?

Xá-lợi-phất nghe nói kinh hãi, lập tức cho những thức ăn hôm nay ói hết ra đất và bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Từ lúc con quy y với Ngài, con vẫn y pháp khất thực của Phật mà xin ăn, con không hề trái phạm mà xin thức ăn bất tịnh.

Phật biết rõ tâm Xá-lợi-phất, giải thích:

- Việc khất thực của riêng ông, ta biết là hoàn toàn không trái phép, nhưng Tăng đoàn có lục hòa, không nên chỉ biết riêng mình. Về pháp chế nên bình đẳng, lợi ích cũng đều nhau, làm bậc trưởng lão nên thường thương tưởng để ý đến các Tỳ-kheo nhỏ tuổi và Sa-di, khi khất thực nên chú ý đến họ.

Đức Phật dạy xong, Xá-lợi-phất đối với lời dạy không có một chút bất bình, đều cảm kích lãnh thọ.

6- KHIẾN KẺ PHẢN BỘI KINH SỢ

Trong hàng đệ tử Phật, có một Tỳ-kheo tên Đề-bà-đạt-đa, ông ta vốn là đường đệ của Phật khi Ngài còn làm vương tử, sau khi theo Phật xuất gia được mười năm, bị ma quỷ làm mê mờ tâm trí, bèn phản lại đức Phật, tách rời khỏi Tăng đoàn.

Một hôm, sau khi đức Phật đi khất thực về, cùng các đệ tử nghỉ ngơi tại giảng đường, Đề-bà-đạt-đa ngang nhiên dẫn đầu nhóm bè đảng đến yêu cầu Phật nhường quyền lãnh đạo Tăng đoàn cho ông.

Phật chẳng hề trả lời, mặc cho Đề-bà-đạt-đa la lối om sòm, Phật vẫn im lặng nhường lời, Đề-bà-đạt-đa lại kêu gọi các Tỳ-kheo đi theo ông. A-nan là bào đệ của ông, lúc ấy mới nói:

- Xin anh đừng hồ đồ, anh là huynh trưởng của tôi, tôi nghĩ đến anh tạo tội nặng như thế, tương lai sẽ bị đọa mà cảm thấy ghê sợ. Đức Phật là bậc đại từ bi, con người như anh không thể sánh với Ngài. Nếu hôm nay có mặt Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ở đây, chắc chắn không để cho anh tung hoành như vậy.

Sau đó, Đề-bà-đạt-đa dùng các phương pháp uy hiếp, dùng lợi lộc dụ dỗ các đệ tử Phật, có một số người lòng tin không vững, vì tham mê sự cúng dường nồng hậu của vua A-xà-thế đối với Đề-bà, đổi lòng đi theo ông.

Ngày nọ, đang khi các phản đồ cùng với số đệ tử của Đề-bà-đạt-đa nhóm họp một chỗ, Xá-lợi-phất uy nghiêm đi đến và hỏi:

- Này quý vị, tôi hỏi quý vị một câu, quý vị xuất gia tu đạo là vì thọ cúng dường? Hay vì tu đạo?

Đại chúng đồng đáp:

- Vì mục đích tu đạo, vì muốn thoát ly sanh tử.

- Nếu như vậy, các ông không tu theo chánh đạo của đức Phật, lại để cho lòng tin thuần khiết tôn quý của mình bị lay động vì chút vật chất cỏn con, các ông phải mau mau phản tỉnh giác ngộ mới được.

Khi Xá-lợi-phất nói lời ấy, từ thân mình phóng ra muôn đạo kim quang, trong đó hiển hiện từ dung của Phật, các Tỳ-kheo phản bội và môn đồ của Đề-bà thấy rồi đều quỳ xuống sám hối, Xá-lợi-phất lại dẫn họ trở về Tăng đoàn.

Đức Phật từ đó càng tin cậy Xá-lợi-phất, Ngài có công lớn trong sự hòa hợp Tăng đoàn. Đề-bà-đạt-đa không sợ Phật, mà rất sợ Xá-lợi-phất.

7- LÃNH THỌ ĐẠO CỨU KHỔ

Khi đức Phật ở Kỳ Viên tinh xá, thương cho chúng sanh trôi nổi trong biển khổ sanh tử không chỗ nương cậy, nghĩ đến mọi loài luân hồi trong sáu nẻo không có một nơi trở về an vui, hạnh phúc, Ngài muốn nói lên pháp môn cứu độ nhưng sợ hạng căn cơ thấp kém nhỏ hẹp không thể tin tưởng thọ trì. Sau cùng, chọn lựa cặn kẽ, Ngài quyết định: Dùng trí tuệ của Xá-lợi-phất chắc chắn sẽ thông hiểu được cõi Cực lạc trang nghiêm thanh tịnh, chắc chắn có thể lãnh thọ tín ngưỡng Phật A-di-đà. Trong chúng hội tuy có đủ ba hạng căn cơ thượng, trung, hạ nhưng đức Phật chọn Xá-lợi-phất làm đương cơ để nói lên một pháp môn dễ thực hành mà sáng tỏ. Đức Phật dạy: “Xá-lợi-phất! Ở phương Tây, cách thế giới của ta rất xa xôi, có một thế giới tên là thế giới Cực Lạc. Ở đó có vị giáo chủ là đức Phật A-di-đà đang thuyết pháp.

Xá-lợi-phất! Thế giới ấy tại sao gọi là thế giới Cực Lạc? Vì thế giới ấy không giống thế giới Ta-bà này có nhiều xấu xa, nhỏ hẹp, đau khổ. Chúng sanh ở quốc độ đó chỉ có đầy đủ không hề thiếu thốn, chỉ có an vui không hề đau khổ, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc. Cõi ấy cảnh vật bằng phẳng, sạch sẽ, giàu có. Người trong nước về phần ăn mặc, đi đứng, thuốc men… đều tùy theo nhu cầu mà đầy đủ tiện nghi. Những người ấy đều là các bậc thượng thiện ở chung một cõi. Phong cảnh như một rừng hoa tuyệt mỹ, kiến trúc như đô thị nguy nga.

Xá-lợi-phất! Chỉ cần nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, gieo trồng nhân duyên phước đức, tu học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tương lai sẽ được Phật A-di-đà tiếp dẫn, được vãng sinh về nước của Ngài.

Xá-lợi-phất! Chúng sanh ở thế giới Ta bà nếu muốn thoát khỏi khổ não trong sáu đường luân hồi, chỉ nên phát nguyện cầu được sanh về cõi ấy. Ta từng bảo A-nan lễ bái Phật A-di-đà, ông ấy cũng từng được thấy đức Phật kia phóng hào quang lớn, các ông nên tin pháp môn khó tin mà ta vừa nói, đó thật là con đường cứu khổ.”

Đức Phật nói xong, Đại trí Xá-lợi-phất không hề có một niệm hoài nghi. Tôn giả và đại chúng đều tin sâu pháp môn Tịnh độ của Phật A-di-đà.

8- ĐỨC HẠNH NHẪN VÀ NHƯỜNG

Xá-lợi-phất đối với giáo pháp của đức Phật luôn tôn kính và phụng trì, đối với việc bố giáo chưa từng thoái chí, chỉ đối với riêng mình thì vinh nhục khen chê đều chẳng lưu tâm, thảy đều nhường nhịn.

Có một hôm, đức Phật dẫn đại chúng đi bố giáo và trở về thành Xá-vệ, lúc đó nhóm đồ đệ của Lục Quần Tỳ-kheo, đã nhanh chân đến Kỳ Hoàn tinh xá trước đức Phật và đại chúng, chiếm luôn những chỗ nghỉ ngơi tốt đẹp, ngay cả cư thất của Xá-lợi-phất cũng bị chiếm. Họ lại nói: Chỗ này là chỗ của thầy chúng ta, chỗ này là chỗ của chúng ta.

Xá-lợi-phất về sau đức Phật, ngày đó vì hơi chậm chân, khi về đến tinh xá thấy chỗ của mình bị Lục Quần Tỳ-kheo đã ở trước, không còn cách nào khác, Tôn giả bèn ra gốc cây ngồi thiền qua đêm. Sáng sớm, đức Phật dậy, nghe dưới gốc cây có tiếng ho hen, Ngài bèn hỏi:

- Ai ở đó? Sao không tịnh tọa trong phòng?

Xá-lợi-phất thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con là Xá-lợi-phất, vì hôm qua có rất nhiều Tỳ-kheo theo Phật về tinh xá, tất cả phòng đều có người, con tạm ngủ dưới gốc cây một đêm cũng không sao.

Đức Phật nghe xong rất khen đức tốt nhẫn nhượng của Tôn giả, nhưng nhóm các Tỳ-kheo lại dạy:

- Các Tỳ-kheo! Ta hỏi các ông, trong giáo đoàn ta, người nào xứng đáng được thọ lãnh sàng tòa thượng đẳng, nước thượng đẳng, ẩm thực thượng đẳng?

Các Tỳ-kheo ồn ào bày tỏ ý kiến:

- Đó là Tỳ-kheo xuất thân từ dòng vua chúa!

- Đó là Tỳ-kheo xuất thân từ dòng giáo sĩ!

- Tỳ-kheo nào tu hành và có khả năng bố giáo mới xứng đáng được sàng tòa hạng nhất, nước và thực phẩm hạng nhất!

Sau khi nghe các câu trả lời lung tung, đức Phật nghiêm nghị bảo:

- Các Tỳ-kheo! Thuở xưa tại núi Tuyết có chim chá cô, con khỉ, con voi đồng ở chung. Tuy chúng là bằng hữu, nhưng vì thân thể, sức lực và trí khôn của mỗi con không đồng nhau, nên mạnh ai nấy tự cao tự đại, không tôn kính lẫn nhau. Sau biết như vậy là sai trái, mới cung kính và nghe lời răn dạy của loài lớn tuổi, đến khi thân hoại mạng chung, chúng đều sanh vào đường lành.

Các Tỳ-kheo! Các ông phải tôn kính bậc niên lão về pháp hạnh, hiện tại được người khen ngợi, về sau mới được sanh chỗ lành. Này các Tỳ-kheo! Trong giáo pháp ta không có giai cấp cao thấp, nhưng có bậc trưởng lão về pháp lạp và giới lạp, các ông phải cung kính, phụng sự, lễ bái. Các bậc trưởng lão ấy đáng được thọ sàng tòa đệ nhất, nước và thực phẩm đệ nhất .

Đức Phật nói như thế, đại chúng đều hiểu ý, Xá-lợi-phất rất cảm kích, đại chúng cũng rất cảm kích.

9- KHEN MỘT CÁI CHẾT ĐẸP

Xá-lợi-phất tuy là bậc trưởng lão chứng Thánh quả nhưng đối với người nữ tu hành thành tựu, cũng rất tôn trọng.

Ngày nọ, Tôn giả đang ngồi thiền trong một khu rừng gần thành Vương Xá, đang lúc buông hết để nhập chánh định, bỗng nghe Tỳ-kheo ni Ưu-ba-tiên-na ngồi thiền trong hang động đối diện lớn tiếng gọi Ngài, Ngài bước đến thì Ưu-ba-tiên-na nói:

- Thưa Tôn giả! Khi tôi đang tọa thiền, trên thân mình bỗng chạm nhằm vật gì, ban đầu tôi không lưu ý, sau mới biết là một loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn, thế nào cũng chết. Bây giờ thừa lúc chất độc chưa hoành hành, xin Ngài từ bi vì tôi tìm cách mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt!

Khi nói câu ấy, Ưu-ba-tiên-na không tỏ một chút gì kinh sợ, như là chẳng có việc gì xảy ra.

- Ở đây vừa xảy ra việc đó sao? Ta xem sắc mặt cô không có gì biến đổi. Nếu như bị rắn cắn, nhất định cô sẽ biến sắc.

Ban đầu Xá-lợi-phất cho là không có việc gì nên nói như thế. Ưu-ba-tiên-na trầm tĩnh đáp:

- Bạch tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là không. Tôi đã chứng được đạo lý ấy, độc xà làm sao cắn được cái “không”?

- Cô nói rất đúng, cô đã đến trình độ thoát khỏi mọi đau đớn của thân thể, cô dùng tuệ mạng của mình mà giữ gìn sắc mặt không biến đổi.

Xá-lợi-phất khen ngợi Ưu-ba-tiên-na và thông tri cho các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni tu tập gần đó, đem Ưu-ba-tiên-na ra khỏi động, nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp người. Ưu-ba-tiên-na vô sự nhập Niết-bàn. Thấy được bậc giải thoát như thế, đại chúng rất tán thán, Xá-lợi-phất nói:

- Người tu hành điều tâm, tấn nhập Niết-bàn, đối với cái chết của thân mình, coi như bỏ một cái bát độc, như bệnh nặng được lành. Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện nhất định thành, sắp chết không đổi sắc, đó là dùng mắt trí tuệ mà xem tướng thế gian, ra khỏi nhà lửa, thật là đẹp vô cùng.

Lời ngài Xá-lợi-phất khen Ưu-ba-tiên-na, cũng vốn là phương pháp quán sát của Phật giáo đối với chuyện tử sinh. Chuyện ấy trong con mắt người tu hành, xem giống như một đám mây qua.

10- LÒNG KHOAN DUNG RỘNG RÃI

Tuổi tác của Xá-lợi-phất tùy theo vô thường năm tháng gia tăng, Ngài đến lúc là một bậc cao niên tám mươi tuổi. Năm ấy, sau mùa an cư ở Kỳ Viên, vì việc hoằng pháp độ sanh, Ngài không nề tuổi già, không từ lao khổ, thỉnh cầu đức Phật cho phép Ngài đi du phương hóa đạo. Phật hứa khả và rất khen ngợi tinh thần vì người, vì giáo lý của Xá-lợi-phất.

Tôn giả rời tinh xá không bao lâu, có một Tỳ-kheo đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xá-lợi-phất đi vân du hôm nay không phải vì tuyên dương Phật pháp, mà vì ông ấy đã làm nhục con, gặp mặt con thấy hổ thẹn muốn tránh mặt nên mới kiếm chuyện đi phương khác.

Đức Phật không thích kẻ phỉ báng người vắng mặt, nghe xong lập tức sai người mời Xá-lợi-phất trở lại, và ở trước đại chúng, Phật nghiêm nghị hỏi Xá-lợi-phất:

- Xá-lợi-phất, sau khi ông đi không lâu, có một Tỳ-kheo đến mách với ta rằng ông đã khi dể, nhục mạ ông ấy, có thật vậy không?

Xá-lợi-phất ôn hòa cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ khi con theo Ngài đến nay, nay là gần tám mươi tuổi, con nhớ con chưa từng sát hại sinh mạng, chưa hề nói lời hư vọng, chỉ trừ khi vì muốn tuyên dương chân lý, cũng chưa từng nói chuyện riêng tư lợi hại được mất của người, cùng người bàn tán tốt xấu. Hôm nay là ngày rốt sau của an cư, trong ba tháng qua, mỗi ngày con đều sám hối, không mất chánh niệm, tâm con trong lặng, không có một vẻ bất bình, con làm sao khinh thị người khác được ư?

Bạch Thế Tôn! Đất bùn hay nhẫn nhục, bất cứ vật gì nhơ uế đổ lên, đất không cự tuyệt. Phẩn tiểu, máu mủ, đờm dãi đất đều cam thọ cũng như kẹo ngon. Tâm con hôm nay bộc bạch trước đức Thế Tôn, nguyện như sức nhẫn nhục của đại địa, nguyện không trái nghịch ý người.

Dòng nước thanh tịnh, không kể vật sạch dơ hay cũ mới đều dùng nước để rửa sạch. Tâm con không yêu ghét, cũng như dòng nước.

Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét bụi, khi quét dọn không chọn lựa tốt xấu, tâm con hôm nay thật là không hề khởi phân biệt tốt xấu. Con ở trong chánh niệm, quyết không hề khinh tiện vị Tỳ-kheo kia, con đối Phật mà nói lời này, con biết việc làm của con, Tỳ-kheo kia cũng biết việc làm của vị ấy. Như nếu con có lỗi, con xin hướng về Tỳ-kheo ấy sám hối để tâm con khỏi cắn rứt.

Vị trưởng lão gần tám mươi tuổi, đã đối trước Phật cáo bạch mọi việc như thật, đại chúng nghe qua đều cảm động.

Phật bảo ông Tỳ-kheo vu cáo kia:

- Ông có lỗi hủy báng trưởng lão, bây giờ không thể không sám hối. Ông đã có ý khiến Tăng đoàn phân vân, ông chẳng muốn cho Tăng đoàn hòa hợp. Nếu như ông không chí thành sửa đổi, sẽ bị khổ báo vô cùng!

Tỳ-kheo kia vội vàng quỳ trước Phật ai cầu sám hối:

- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Xá-lợi-phất là người không lỗi chi, con đối với bậc Trí tuệ năng lực như thế mà không biết nhún mình học tập, lại sanh tật đố, xin Phật từ bi thương xót, cho con cơ hội đầu tiên sám hối.

Đức Phật trang nghiêm từ hòa bảo:

- Ông hãy đến sám hối Xá-lợi-phất.

Tỳ-kheo ấy phủ phục cúi đầu quỳ trước Xá-lợi-phất, Tôn giả bèn để tay lên đầu ông mà từ tốn nói:

- Tỳ-kheo! Trong giáo pháp của Phật, sám hối có sức mạnh vô cùng. Làm người ai không khỏi lầm lỗi? Biết lỗi liền sửa, đó là việc lành rất lớn. Tôi nhận sự sám hối của ông, từ đây về sau đừng tái phạm.

Thái độ và lời nói của Xá-lợi-phất, ai nghe cũng cảm động. Lòng quảng đại, tâm bình đẳng của Tôn giả thật là không kể kẻ oán người thân.

11- VÀO KIM CANG ĐỊNH

Khi đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá, tôn giả Xá-lợi-phất nhập Kim Cang tam-muội ở núi Kỳ-xà-quật. Trong núi có hai con quỷ một thiện một ác, một đứa tên Ưu-bà-ca-la, một đứa tên là Già-la. Chúng nhìn xa xa thấy Xá-lợi-phất đang ngồi kiết già tĩnh tọa, ác quỷ Già-la bèn nói với thiện quỷ Ưu-bà-ca-la.

- Này Ưu-bà-ca-la, ta sẽ đánh bể cái đầu của lão Sa-môn kia!

- Anh chớ nên nói như thế, vị Sa-môn ấy là đệ tử Phật, thông minh Trí tuệ số một và có thần lực, nếu như anh khởi ác tâm hại vị ấy, về sau sẽ trầm luân vĩnh cửu, chịu khổ vô cùng. Thiện quỷ Ưu-bà-ca-la can ngăn.

- Anh sợ lão Sa-môn ấy sao? Sa-môn là người rất dễ bắt nạt. Anh chú ý một chưởng của tôi, cái đầu Sa-môn lập tức nát như cám.

- Anh nói vậy chớ tôi thật kiêng nể Sa-môn, Sa-môn tuy là nhẫn nhục dễ bị lấn áp, nhưng các vị ấy có oai đức rất lớn. Anh mà đánh Sa-môn ấy, ổng tuy bị khổ nhứt thời, nhưng chúng ta sẽ vĩnh viễn bất an.

Thiện quỷ nói xong, ác quỷ vẫn không nghe liền tung chưởng đánh ngay đầu Xá-lợi-phất. Thiện quỷ không nỡ nhìn cảnh ấy, bèn tàng hình biến đi. Câu chuyện tuy nói dài dòng nhưng xảy ra chỉ trong nháy mắt, ác quỷ đánh tới, mà Xá-lợi-phất chỉ có cảm giác như một chiếc lá rơi trên đầu. Ngài mở mắt ra kịp thấy một con quỷ thất khiếu chảy máu rớt xuống địa ngục.

Xá-lợi-phất từ Kim cang tam-muội dậy, chỉnh y phục, đến vườn Trúc gặp Phật, Phật bèn hỏi:

- Xá-lợi-phất! Hôm nay, thân ông có việc gì không?

- Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con không có bệnh nặng, hiện tại trên đầu chỉ đau chút đỉnh.

- Xá-lợi-phất! Hôm nay, ông nhập Kim cang định rất tốt. Quỷ Già-la đánh trên đầu ông mà chẳng gây thương tích cho ông, phải biết quỷ Già-la mà đấm núi Tu-di cũng phải bể hai. Sức định Kim cang lớn mạnh như thế, Tỳ-kheo các ông cần phải tu trì.

Xá-lợi-phất thường dạo chơi trong Không tam muội và Kim cang tam-muội, tai nạn bên ngoài không thể làm hại Ngài tí nào.

12- XIN ĐƯỢC NHẬP NIẾT-BÀN TRƯỚC

Đức Phật ở trong rừng của thôn Trúc Phương, gần thành Tỳ-xá-ly, sau khi thuyết pháp xong liền báo cho mọi người một tin kinh hãi, đó là ba tháng nữa Ngài sẽ nhập Niết-bàn.

Mọi người đều buồn thảm, chuyện ấy không cần nói, Xá-lợi-phất cũng không thể nào nhìn thấy đức Phật Niết-bàn. Tôn giả ở trong định nghĩ thầm:

- Những đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều nhập Niết-bàn trước, nay ta là đệ tử thượng thủ của Thế Tôn, ta nên nhập Niết-bàn trước Ngài.

Sau khi nghĩ như vậy, Xá-lợi-phất liền xả thiền đến trước Phật, quỳ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nhập Niết-bàn, xin đức Thế Tôn hứa khả.

Phật chú ý nhìn Xá-lợi-phất rất lâu, mới hỏi:

- Vì sao ông muốn nhập Niết-bàn mau như vậy?

- Bạch Thế Tôn, Ngài nói Ngài sẽ nhập Niết-bàn gần đây. Thế Tôn đã ban cho con pháp tình và ân huệ rộng lớn, làm sao con có thể thấy Thế Tôn vào Niết-bàn. Vả lại, Thế Tôn từng nói, các đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều vào Niết-bàn trước các Ngài. Con thiết tưởng nay là đúng lúc con vào Niết-bàn, xin Thế Tôn từ bi hứa khả.

Xá-lợi-phất nói xong, rất có vẻ thương cảm nhưng vẫn không để mất phong độ an tịnh. Phật lại hỏi:

- Ông định vào Niết-bàn ở nơi nào?

- Ở cố hương của con, thôn Na-la-tý-nỏa-ca. Mẹ già trăm tuổi của con vẫn còn mạnh khỏe, con muốn về thăm mẹ già một lần. Và sẽ nhập Niết-bàn nơi phòng con đã được sinh dưỡng.

- Ta không cản ngăn ông, ông có thể làm theo ý mình, nhưng ông là đệ tử thượng thủ trong hàng đệ tử ta, nên đợi các chúng hội họp và lưu lại cho mọi người đôi lời giáo huấn.

Phật sai A-nan tập hợïp chúng Tỳ-kheo. Mọi người nghe tin Xá-lợi-phất cáo từ để vào Niết-bàn, đều mau mau vân tập. Trước tiên Xá-lợi-phất cáo biệt đức Phật:

- Thưa Thế Tôn, con từ quá khứ vô lượng kiếp, luôn luôn mong được sanh nhằm thời Phật ra đời, và rốt cuộc đã được mãn nguyện. Nỗi vui mừng khi gặp Phật chẳng có gì so sánh được. Trong bốn mươi năm, lãnh thọ lời dạy từ bi của Thế Tôn, khiến kẻ ngu si như con được mở mắt trí tuệ, giác ngộ chân lý, chứng Thánh quả. Ngôn từ và hình dung trong thiên hạ không thể diễn tả được sự cảm kích và vui mừng của con. Hôm nay, thời hạn lìa cõi tục của con gần kề, con sắp xả bỏ mọi ràng buộc thế gian, sắp sửa tấn nhập cảnh giới Niết-bàn tự do, tự tại. Như người gánh nặng đi xa, sắp được buông xuống. Con tự lấy làm vui mừng, con thừa thọ pháp thủy cam lồ của Thế Tôn, đã giúp con cởi mở sự trói buộc của ngũ uẩn, không còn thọ những khổ não các cõi nữa. Đây là lời từ giã cuối cùng đối với Thế Tôn, xin Ngài cho con đảnh lễ.

Xá-lợi-phất nói xong, gieo năm vóc sát đất, không khí rất trầm lặng nghiêm túc.

Phật gật đầu nói với Tôn giả:

- Xá-lợi-phất! Những lời giảng dạy của ta ông đã lãnh hội, nay ta thọ ký cho ông, tương lai ông sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, sẽ trở lại nhân gian giáo hóa chúng sanh, thành tựu quả Phật tối cao.

Đức Phật nói xong, liền bảo đại chúng tiễn đưa Xá-lợi-phất một đoạn đường. Tôn giả đứng dậy đi lui ra cho đến lúc không còn nhìn thấy Thế Tôn, mới xoay mình lại bước đi.

Các Tỳ-kheo đều mang hương hoa đưa tiễn Tôn giả, đây là lúc đượm vẻ vắng lặng, trang nghiêm thê lương, phần lớn các Tỳ-kheo đều rướm lệ.

13- LỜI TẶNG SAU CÙNG

Các Tỳ-kheo đi theo tôn giả Xá-lợi-phất một đoạn không xa, Tôn giả dừng lại nói với mọi người:

- Quý vị hãy ngừng lại đây, không cần đưa tiễn thêm. Chỉ cần Sa-di Quân-đầu theo tôi mà thôi. Xin quý vị hãy trở về, tự mình gấp rút tu hành, mong rằng quý vị nỗ lực tinh tấn thoát ly ưu bi khổ não, mau vào cảnh giới giải thoát tự do.

Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian này như hoa Ưu Đàm mấy ngàn vạn năm mới gặp kỳ nở hoa. Thân người khó được, tín tâm thuần khiết khó nuôi dưỡng, đời nay chúng ta được xuất gia lại được tự thân nghe Phật thuyết pháp, thật là việc hy hữu trong trăm ngàn vạn ức đời. Hy vọng đại chúng tinh tấn thêm lên. Các hành vô thường, cần yếu phải chiến thắng cái khổ vô thường đó, đạt đến cảnh giới Niết-bàn vô ngã, đó mới là nơi trở về vĩnh viễn chơn thật của chúng ta, đó mới là một thế giới an vui tịch tĩnh.

Tôn giả nói lời ấy xong, đại chúng nghĩ đến đây là lời tặng cuối cùng trong dịp tử biệt sinh ly, không nén nổi bi ai, mọi người đều khóc với Tôn giả:

- Tôn giả! Ngài là đệ tử thượng thủ của đức Thế Tôn, là bậc trưởng lão trong hàng Tỳ-kheo chúng con, về sau chúng con rất cần Ngài lãnh đạo trong công tác hóa đạo, vì sao Ngài sớm vào Niết-bàn như thế?

Xá-lợi-phất biết rõ tâm sự đại chúng, nhưng rất an tĩnh đáp:

- Xin các vị đừng thương cảm như thế. Thế gian này là vô thường, Phật đã chẳng thường nói với chúng ta như vậy sao? Núi Tu-di còn có lúc hoại, biển lớn còn có ngày khô cạn, cái chết của sắc thân Xá-lợi-phất tôi như hạt cải nhỏ xíu, đó là chuyện đương nhiên, đó cũng là thật tướng của thế giới.

Lời sau cùng tôi muốn dặn dò quý vị là cần phải nhất tâm tu đạo, thoát ly khổ hải, cần gấp về thế giới Cực lạc thanh lương. Đức Phật ngày xưa đã từng nói với tôi, quốc độ của Phật A-di-đà ở phương Tây là nơi giải thoát an lạc. Các vị nên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng thì nguyện vọng của quý vị sẽ như ý.

Tôi lại mong quý vị tuyên dương lưu bố giáo pháp của Phật-đà, không nên so đo toan tính về danh lợi của riêng mình; không vì phước lợi cho quần sanh thì đừng xuất gia. Cho đến thời mạt pháp, đời đời kiếp kiếp chỉ cần có chúng sanh nghĩ đến việc cầu vui dứt khổ, giải quyết xong chuyện của chính mình, họ cũng có thể nối tiếp huệ mạng của Phật-đà.

Xá-lợi-phất nói xong, mọi người đều bi thương cảm động. Mỗi người đều biết đây là lần chia tay sau cùng với Tôn giả, về sau sẽ vĩnh viễn không thể tương phùng. Tuy Tôn giả bảo đại chúng trở lui, mà ai nấy đều bước theo Ngài. Ngài không thích thái độ lưu luyến như thế, lại một lần nữa cự tuyệt sự tiễn đưa của họ. Cuối cùng, mọi người phải dừng lại, nhìn theo bóng Tôn giả mất hút mà không nghĩ chuyện quay về. Nghĩ đến từ nay không còn gặp lại vị Trí tuệ đệ nhất, mà bất giác nước mắt rơi không ngừng. Các vị ấy tuy đã giác ngộ, nhưng nhơn tình và pháp tình không khác vậy.

14- HỒI GIA

Từ giã đức Phật và Tăng đoàn, Xá-lợi-phất chỉ dắt theo Sa-di Quân-đầu. Trên đường đi, trong tâm Tôn giả khởi lên những đợt sóng cảm nghĩ triền miên. Tuy nhiên như thế nhưng trong tâm Ngài vẫn không loạn động, phẳng lặng và sáng suốt như đứng lặng trên đỉnh Tuyết Sơn, toàn vũ trụ đều hiện rõ trong tâm.
Khi đó Xá-lợi-phất về đến cố hương, mặt trời nghiêng về Tây, trên thôn làng Ca-la-tý-nỏa-ca, một ráng mây hồng ở góc trời. Tôn giả ngồi nghỉ bên đường, thốt nhiên đứa cháu gái tên Ưu-bà-ly-bà-đa đến bên lễ bái, Tôn giả hỏi:

- Bà nội có nhà không?

- Bà nội không đi đâu cả.

- Cháu thưa với bà có ta trở về.

- Dạ!

- Thưa với bà cho người quét dọn căn phòng của ta sạch sẽ, ta sẽ nghỉ ở đó một đêm.

- Dạ!

Xá-lợi-phất về làm gì, đứa cháu nhỏ chẳng hề biết ất giáp, chỉ dạ lia lịa, vội chạy về thưa với bà, báo tin bá phụ hồi gia.

Mẫu thân của Tôn giả nghe tin con mình từ lâu không về nhà, nay về đến, rất vui mừng. Xá-lợi-phất tuy đã tám mươi tuổi, nhưng đối với tấm lòng của bà mẹ già một trăm tuổi, lúc nào cũng xem Tôn giả như đứa con nhỏ.

Bảo quét dọn căn phòng sanh dưỡng của Tôn giả sạch sẽ, mẫu thân Ngài rất lấy làm lạ, nhưng nỗi vui mừng mẹ gặp con khiến bà phấn khởi không căn vặn lý do.

- Bà nội! Hãy nghỉ đi, chúng cháu quét dọn cũng được rồi – Ưu-bà-ly-bà-đa nói.

- Mấy đứa bây làm nhanh nhanh, cẩn thận quét dọn cho thật kỹ, bác bây là người rất ưa thanh tịnh đó nghen!

Mặt trời khuất núi, Tôn giả về đến nhà, hỏi thăm từng người trong gia đình. Mẹ Ngài vui mừng đến rơi lệ, nói:

- Cuối cùng rồi con cũng trở về!

Xá-lợi-phất an nhiên nhìn mẹ, mỉm cười, và đem ý định trở về đây để nhập Niết-bàn báo cho mẹ cùng gia nhơn hay, ai nấy đều kinh hãi.

- Mọi người đừng bận tâm – Xá-lợi-phất nói –Thưa mẹ! Xin mẹ đừng coi cái chết của con giống như mọi người. Khi chết ai cũng khóc lóc, nhưng con vào Niết-bàn là việc rất vui mừng. Lúc này, thâm tâm con rất vui, rất an ổn. Một đời con được gặp bậc thầy cứu thế Phật-đà, nghe được giáo pháp và thực hành theo đó, con đã được cứu vớt khỏi biển sanh tử, đã được giải thoát từ trong phiền não không còn việc gì phải sợ hãi. Sở dĩ hôm nay con trở về vì để tấn nhập Niết-bàn. Con là đệ tử thượng túc của Phật, con phải vào Niết-bàn trước Ngài. Xin cả nhà yên lòng, đời người ai khỏi chết? Như con không chút mê mờ mà vào cảnh giới Niết-bàn thường trụ, đó thật là một hạnh phúc lớn lao.

Mẹ già trăm tuổi của Tôn giả nghe xong rất buồn, nhưng nghĩ đến con mình xả bỏ thế gian một cách tốt đẹp tự do giải thoát như vậy thì cũng đáng mừng. Bà nghĩ đến cái chết của mình trong tương lai cũng hy vọng được như Tôn giả, đem hết tâm tình hoan hỷ mà đón nhận.

Xá-lợi-phất lại đem lời dạy của Phật nói lại cho mẹ nghe, bà rất thông hiểu ý Tôn giả, nói với Ngài:

- Con giảng giải rất đúng, mẹ cũng vì con mà vui mừng. Không mê muội mà vào Niết-bàn, không còn cái khổ sanh tử là hạnh phúc trên hết. Con hãy nghỉ ngơi một chút đi!

Tuy bà nói vậy nhưng cũng rơi nước mắt mà về phòng.

15- NIẾT-BÀN

Mẹ và gia nhơn đi rồi, Tôn giả mới nói với Quân-đầu:

- Con hãy qua phòng bên kia, để một mình ta trong phòng này.

Tin Xá-lợi-phất trở về nhập Niết-bàn lan truyền trong thôn xóm. Đến canh ba, nửa đêm, những người trong thôn lân cận đã quy y với Phật đều tụ tập. Vua A-xà-thế cũng đem nhiều đại thần đến, ai cũng muốn được gặp Tôn giả lần cuối, viếng thăm và nghe lời thuyết pháp của Ngài.

Quân-đầu dẫn mọi người ngồi tại một nơi và bảo hãy đợi Tôn giả nghỉ ngơi xong sẽ tái kiến.

Đêm càng sâu càng vắng, nơi tịnh thất Tôn giả chỉ có một ngọn đèn sáng, ngoài ra không nghe một tiếng động nào.

Phương Đông dần sáng, Tôn giả gọi Sa-di Quân-đầu đến hỏi:

- Có người nào đến phải không?

- Thưa phải, nhiều người nghe tin Tôn giả nhập Niết-bàn đều đến xin được gặp, cả vua A-xà-thế cũng đến.

- Con mời họ vào đây.

- Họ rất mong được thấy Tôn giả.

Quân-đầu ra nói với mọi người, Tôn giả sẽ cùng mọi người tương kiến, ai nấy còn đang sợ rằng không được thấy Tôn giả hiện tiền, nghe nói vậy đều rất phấn khởi. Mọi người rón rén bước vào phòng Tôn giả, chẳng dám ho hen, bao quanh lớp trong lớp ngoài.

Cuộc gặp gỡ thật thiêng liêng. Tôn giả nói với mọi người:

- Các vị đến đây rất đúng lúc. Tôi cũng muốn gặp quý vị một lần này. Bốn mươi năm qua, tôi vâng lãnh lời chỉ dạy của đức Thế Tôn, đi các nơi giáo hóa, hoặc là tu học bên đấng đạo sư, tôi đối với Ân sư chưa hề có một niệm không vui, hoặc một chút bất mãn, tôi càng lúc càng cảm kích ân lớn của Ngài. Trên đời này, đối với giáo thị rộng lớn sâu xa như biển lớn của Thế Tôn, cũng còn có những chỗ thậm thâm tôi chưa hiểu hết, hôm nay nghĩ đến điều ấy thật là thiếu sót vô cùng. Tôi được mọi người tôn xưng là Trí tuệ đệ nhất, chẳng qua nhờ sức từ bi của Phật, vâng theo lời dạy mà hành trì, nỗ lực tinh tấn mà chứng Thánh quả.

Tôi nói như vậy, là muốn nhắc cho các ông biết rằng được gặp Phật ở đời là ngàn năm khó thấy, vạn năm không dễ hội ngộ, các ông phải mau mau theo lời Phật dạy mà tu học, bảo bối trong biển pháp tuy nhiều, các ông không tham cầu thì không được.

Tôi không còn chút gì chấp ngã, hôm nay cáo biệt các ông, tôi sẽ vào cảnh giới Niết-bàn tịch tịnh. Tôi nguyện theo sau Phật đến nơi bất sanh bất tử vĩnh viễn trường tồn.

Mọi người nghe Tôn giả thuyết pháp, thấy dáng mạo an tịnh của Ngài, ai có thể nghĩ rằng đây là người sắp rời bỏ cõi đời. Vua A-xà-thế và tất cả đều cung kính khâm phục và cũng rất thương cảm. Tôn giả an trụ trong định, nằm nghiêng bên hữu, vào cảnh giới Niết-bàn.

16- TINH THẦN CÒN MÃI TRÊN THẾ GIAN

Tôn giả Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn được bảy ngày, Sa-di Quân-đầu đem hài cốt trà tỳ. Sau đó trở về chỗ Phật, kể hết sự tình cho A-nan nghe, A-nan rơi nước mắt, đưa Quân-đầu đến báo cáo tỉ mỉ với đức Phật, Thế Tôn yên lặng lắng nghe.

Quân-đầu báo cáo xong, đức Thế Tôn thấy A-nan rất đỗi bi thương, nước mắt đầm đìa, mới hỏi:

- A-nan! Ông buồn thảm lo lắng việc gì? Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn điều ấy không quý báu ư? Ông ấy lãnh thọ giáo pháp của ta, rồi khi viên tịch đã đem hết chân lý đi không để lại chút gì sao?

A-nan cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Con chẳng phải buồn rầu lo lắng điều ấy. Tôn giả Xá-lợi-phất phụng trì giới luật, Trí tuệ cao siêu, thuyết pháp khéo léo, mạnh mẽ bố giáo, Ngài luôn luôn nhiệt tình trong công tác, điều ấy không những chỉ chúng con biết mà chúng sanh cũng hoan hỷ xưng tán. Nghĩ đến hôm nay Tôn giả không còn nữa, vì sự lưu bố chánh pháp, vì sự tồn tại của giáo đoàn ngàn vạn năm sau, chịu ảnh hưởng sự Niết-bàn quá sớm của Tôn giả, chẳng phải riêng con lo lắng, con thiết tưởng cả đại chúng cũng đều buồn rầu lo lắng.

Đức Phật biết điều đó là đúng, nhưng điềm đạm an ủi A-nan:

- Ông chẳng nên lo nghĩ. Xá-lợi-phất tuy không còn nhưng chánh pháp chưa từng mất, vô thường xưa nay là thật tướng của thế gian, sanh diệt là lý đương nhiên. Đại thọ trước khi ngã, trước tiên gãy những cành lớn; núi báu trước khi hoại, thì tảng đá to hoại trước, Xá-lợi-phất là người nhập Niết-bàn đầu tiên trong chúng Tỳ-kheo, cũng là thuận theo pháp tự nhiên. Ta không bao lâu cũng nhập Niết-bàn. Các ông đừng thất vọng, giáo pháp của ta chưa từng theo ta mà mất đi. Ta sống mãi ngàn vạn năm trong lòng người tin tưởng, ta luôn chiếu cố đến họ. Các ông cần phải nương nơi pháp, nương nơi chân lý ta đã nói, không nên nương tựa vào ai khác. Tấn nhập Niết-bàn, qua thế giới Cực Lạc là công phu cần thiết đệ nhất .

Phật nói xong, nhận linh cốt Xá-lợi-phất từ tay Sa-di Quân-đầu, nói với đại chúng:

- Các Tỳ-kheo! Linh cốt này trước đây vài ngày còn vì chúng sanh thuyết pháp bố giáo, còn là Đại trí Xá-lợi-phất. Trí tuệ ông ấy rộng lớn vô biên, trừ Thế Tôn ra không ai sánh kịp. Ông ấy chứng ngộ pháp tánh, ít muốn biết đủ, dũng mãnh tinh tấn, thường tu thiền định, vì giáo vì người, hàng phục ngoại đạo, tuyên dương chánh pháp, ông đã chứng quả giải thoát, không còn khổ não.

Các Tỳ-kheo! Hãy xem đây! Đây là di thể do Thế Tôn đích thân cầm lấy.

Khi đức Phật nói lời ấy, bất giác đại chúng đều đảnh lễ linh cốt Tôn giả, cung kính gieo năm vóc sát đất.

Tôn giả tuy ra đi nhưng tinh thần còn mãi mãi trên thế gian.

Liên hệ

           Thầy Thích Đạo Huy
  Số 1c, Phước Thái, Long Thành, Đồng Nai.
  061.354.2631

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Thiền viện Bảo Hải


THIỀN VIỆN BẢO HẢI


  Trụ trì: Thích Nữ Hạnh Bình
  Phó trụ  trì:
Thích Nữ Như Vân
Tri Sự: Thích Nữ Nư Hoa
Địa chỉ: Khu phố 5, phường Long Tâm, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.">This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ XÂY DỰNG:

Vào năm 1956 theo nghị định khẩn hoang lập ấp số 116 của tỉnh Phước Tuy, một số dân làng đã tụ tập về đây khai khẩn đất hoang, định cư lập nghiệp. Chính vì nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của người dân như thi sĩ Huyền Không đã viết:

                    Ngôi chùa che chở hồn dân tộc
                    Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Thế là, ngôi chùa Bảo Hải được hình thành giữa ruộng đồng mênh mông nước.

     +    Năm 1975, ngôi chánh điện nhỏ được dựng lên với vật liệu đơn sơ, mái tôn, vách ván.

     +   Năm 1980 chùa được trùng tu lần thứ nhất, ngôi chánh điệnđược xây dựng lại với mái ngói, vách tường.

    +    Năm 1994, nhận thấy toàn chùa đã xuông cấp nên Ban Hộ tự đã về thiền viện Thường Chiếu thỉnh thầy Kiến Chơn về trụ ở chùa để hương khói sớm hôm.

     +    Năm 1996, vì tuổi già sức yếu, thầy Kiến Chơn  về thiền viện Chơn Không Vũng Tàu để tu dưỡng và sư cô Thích Nữ Hạnh Bình được suy cử về trụ trì nơi đây.

     +    Năm 2005, theo kế hoạch chỉnh trang đô thị của thị xã Bà Rịa, nhà nước di dời toàn bộ ngôi chùa cũ qua đất mới. Đây là đợt đại trùng tu trong thời hạn 2005-2010. Đến nay, các kiến trúc cơ bản như: chánh điện, tường rào, trai đường, nhà bếp đã hoàn thành.


II.  BAN CHỨC SỰ 

Trụ trì

Thích Nữ Hạnh Bình

Phó trụ trì

Thích Nữ Như Vân

Tri sự

Thích Nữ Như Hoa

Giáo thọ

Thích Nữ Hạnh Bình
Thích Nữ Như Vân


III.THỜI KHÓA SINH HOẠT: 

Thời Khóa Tu Học

      Sáng:

    3g

    :Thức chúng

    3g -5g30

    : Tọa thiền.

    6g30

    : Tiểu thực.

    7g

    : Công tác.

    10g

    : Xả công tác.

    10g45

    : Thọ trai.

    12g

    : Chỉ tịnh.

      Chiều:

    13g

    : Thức chúng.

    13g30 - 14g

    : Sám hối.

    14g30 -15g30

    : Học Kinh.

    15g30 - 17g

    : Công tác..

    18g30

    : Sám hối.

    19g30  - 20g30

    : Tọa thiền.

    21g

    : Chỉ Tịnh


Một số hình ảnh Thiền viện Bảo Hải


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Chương Trình Khai Pháp tại TVTL Trí Đức

 

Chương trình khai pháp
Ngày 22/02/2009- 28 tháng giêng Kỷ Sửu

      Sáng:

    7h30'

     : Phật tử tề tựu

    8h

     : Khóa lễ Bát-nhã

    9h

     : Tọa thiền

    9h45’

     :  Xả thiền

    10h

     : Kinh hành

    11h

     : Thọ trai

    12h

     :  Chỉ tịnh (Nghỉ trưa)


    
  Chiều:

    12g 45

     : Lễ Quy Y

    1h30’

     : Học Phật pháp

    2h30’

     :Tham vấn

    3h30’

     : Giải lao

    4h 

     : Hoàn mãn

LỜI NÓI ĐẦU

LỜI NÓI ĐẦU

Tập “Tích Truyện Pháp Cú” này được dịch theo bản Anh ngữ Buddhist Legends của học giả Eugène Watson Burlingame. Nhà học giả này đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú Sớ Giải (Dhammapada Commentary) bằng tiếng Pàli. Tương truyền Pháp Cú Sớ Giải là công trình của ngài Buddhaghosa (Phật Âm), sống khoảng thế kỷ thứ V Tây lịch.

Nhận thấy sự lợi ích rộng lớn của nó, chúng tôi phụng dịch để đóng góp vào nền Phật học nước nhà. Tuy cố gắng hết sức, nhưng không sao tránh khỏi những thiếu sót, kính mong chư vị Cao Túc thương tình tha thứ cho.

Chúng con cũng xin tri ân Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ cho việc in ấn dịch phẩm.

Kính ghi,
Thiền viện Viên Chiếu


DẪN NHẬP

Kính lạy đức Thế Tôn Phật Đà, đấng Toàn Thiện Toàn Giác.

Con xin cúi đầu đảnh lễ Phật, đảnh lễ Pháp, đảnh lễ Tăng.

Cả thế gian chìm đắm trong đêm tối dày đặc của vô minh phiền não. Ngài cũng ở thế gian mà đã quét sạch được nó. Với năng lực siêu phàm chứng đạt được, Ngài đã thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp.

Ngài là bậc Toàn Trí, phân biệt rành mạch chơn ngụy trong mọi vấn đề. Đấng Đạo sư đã thuyết nói chánh pháp, vì lòng từ vô lượng đã giảng giải giáo pháp theo căn cơ, khiến trời người đều được an vui, mãn nguyện.

“Một bản chú giải thật sinh động được lưu truyền qua bao thế hệ trên đảo Tích Lan. Nhưng vì tác phẩm viết bằng thổ ngữ địa phương nên sự lợi lạc chẳng đến được các xứ xa xôi. Không chừng tác phẩm sẽ góp phần đắc lực trong việc mang lại an lạc cho hết thảy nhân loại”.

Đấy là ước nguyện của Trưởng lão Kumāra Kassapa đã thổ lộ với tôi, vị Trưởng lão đã khéo tự điều phục được mình, hằng sống với tâm an tịnh, chí nguyện luôn kiên trì. Ngài chân tình khuyến thỉnh tôi, do lòng mong muốn Chánh pháp được trường tồn.

Vì vậy, tôi sẽ thay thế thổ ngữ đầy những lối diễn đạt dài dòng này, phiên dịch tác phẩm qua thứ tiếng thông dụng, êm ái, dễ nghe của kinh điển. Những điểm nào khó hiểu, chưa rõ nghĩa trong các câu kệ, dù chữ hay lời, tôi xin sẽ làm sáng tỏ. Phần còn lại, tôi sẽ trình bày bằng tiếng Pali, phù hợp với tinh thần các câu kệ. Như thế, tôi mong sẽ đem đến an vui, mãn nguyện cho tâm bậc hiền trí về cả hai mặt đạo và đời.

Tác giả bản Pali
 

Thiền viện Liễu Đức


THIỀN VIỆN LIỄU ĐỨC


Thành lập năm 1982
Trụ trì:
Ni sư THÍCH NỮ NHƯ ÐẠO
Địa chỉ: ấp 1A, xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Ðồng Nai
Ni chúng có khoảng 45 vị

Ðiện thoại:
061.384.1382

I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP :

NĂM 1984 , chúng tôi đến đây mua một miếng đất diện tích 13000m2 với một ngôi nhà sàn cũ để làm chỗ tu học. Chúng lúc đó là 15 vị. Cuộc sống ban đầu là làm nhang.

Năm 1986, Hòa thượng Tôn sư từ thiền viện Chân Không về Thường Chiếu. Chúng tôi xin tu theo pháp môn của hòa thượng, nên được hòa thượng đặt tên tịnh thất là Tu viện Liễu Đức. Mỗi tháng chúng tôi đều được Hòa thượng đến để dạy dỗ và sách tấn tu hành. Lúc này chúng được khoảng 30 vị.

Trong năm này, nhà sàn được thay thế bằng gỗ ván …

Năm 1989, tu viện Liễu Đức được Hòa thượng đổi tên là thiền viện Liễu Đức. Lúc này chúng đã lên được 60 vị.

Năm 2000, các công trình phụ và khu thiền thất lá (dùng để nhập thất) được sửa sang lại.

Năm 2001 xây dựng lại nhà Tổ và Tăng đường.

Năm 2002 xây dựng lại chánh điện.

II. THỜI KHÓA TU HÀNH :

Mỗi tháng từ mùng 8 đến 15 là tuần tu nên buổi chiều tọa thiền từ 14 giờ đến 16 giờ

  • Ngày mùng 1 hàng tháng, Phật tử tập trung về thiền viện tu học.

Một số hình ảnh Thiền viện Liễu Đức


 

 

 

 

 

 

 

LƯỢC THUẬT TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA

I.- THẾ TỘC:

 Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy, quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.

Sau khi thân phụ quá cố, Hòa thượng theo thân mẫu đi chùa Phước Hậu, làng Đông Hậu, quận Trà Ôn làm lễ cầu siêu trong 7 tuần thất. Duyên xưa gặp lại, mặc dù lúc ấy Hòa thượng chưa biết đạo lý là gì, mà nằn nằn quyết một đòi ở chùa. Bởi gia đình mộ đạo, nên cụ bà không từ chối nguyện lành của con. Năm ấy Hòa thượng vừa lên 7 tuổi, xuất gia tại chùa Phước Hậu. Sau đó, Hòa thượng được gởi đến chùa Đông Phước, làng Đông Thành, quận Cái Vồn, theo học với tổ Khánh Anh.


II. - THỜI HỌC ĐẠO:

a) Học các trường gia giáo:
Hòa thượng cầu pháp với tổ Khánh Anh được hiệu là Hoàn Tuyên. Từ đó, Tổ được mời dạy những trường gia giáo nơi nào, Hòa thượng đều theo đó học tập, từ chùa Đông Phước lần lượt đến các nơi, sau cùng là chùa Long An. Năm 1931, tổ Khánh Anh lãnh chùa Long An ở Đồng Đế Trà Ôn và khai gia giáo nơi đây. Năm ấy, Hòa thượng đã 14 tuổi, nhập chúng tu học tại chùa này 3 năm.

b) Phật học đường Lưỡng Xuyên:
Đầu mùa hạ năm 1935, Phật học đường Lưỡng Xuyên khai giảng, Hòa thượng xin nhập học tại đây, lúc đó được 17 tuổi và ngay năm ấy, Hòa thượng thọ giới Sa-di. Từ đây Hòa thượng chính thức vào Phật học đường sống theo nếp mẫu mực đạm bạc của đời Tăng sinh. Sau 3 năm mãn lớp Sơ đẳng nơi đây, Tăng sinh muốn tiến lên phải vận động ra Huế học. Với chí hiếu học và óc cầu tiến, Hòa thượng nài xin Ban giám đốc Phật học đường Lưỡng Xuyên chấp nhận giới thiệu, và vận động thí chủ ủng hộ tài chính. Kết quả Hòa thượng được mãn nguyện, lo khăn gói lên đường với các pháp hữu: Thiện Hòa, Hiển Thụy, Hiển Không, Chí Thiện, Bửu Ngọc, Giác Tâm. Thế là năm 1938, Hòa thượng được ra Huế học, lúc ấy được 20 tuổi.

c) Phật học đường Báo Quốc:
Sau khi ra Huế, quý Ngài dự học tại Phật học đường Tây Thiên hai năm. Kế đó vào Quy Nhơn ở chùa Long Khánh để đến học Phật pháp với tổ Phước Huệ ở chùa Thập Tháp hết một năm tròn. Các Ngài lại trở ra Huế dự học tại Phật học đường Báo Quốc ngót bốn năm. Sau trường Báo Quốc dời đến tòng lâm Kim Sơn năm 1945. Lớp học tại đây vừa mãn thì chiến tranh dồn tới. Trường Kim Sơn không duy trì được, nên Hội An Nam Phật Học ủy thác cho quý Hòa thượng Trí Tịnh và Thiện Hoa v.v... mang một số học Tăng vào Nam. Thế là, ngót tám năm dài (1938 - 1945), quý Hòa thượng chịu nhọc nhằn cần mẫn học tập ở đất Thần kinh. Khi trở về mang một hoài bão "Hoằng pháp lợi sinh", để rồi miền Nam bừng sáng do các Ngài mồi ngọn đuốc từ chốn cố đô.

III.- THỜI HÀNH ĐẠO:
1) Khai Giảng Phật Học Đường Phật Quang:
Năm 1945 Hòa thượng hợp tác cùng Hòa thượng Trí Tịnh khai giảng Phật học đường Phật Quang, tại rạch Bang Chang, xã Thiện Mỹ, quận Trà Ôn. Số Tăng sinh đến dự học trên 30 vị. Năm 29 tuổi Hòa thượng thọ giới Tỳ kheo và Bồ-tát tại giới đàn Kim Huê Sa Đéc.

Những năm 1946 và 1947 thấy tình cảnh chiến tranh của đất nước, thấy Tăng sĩ một phần đã cởi áo cà-sa mặc chiến bào, Hòa thượng Trí Tịnh quyết định dời về Sài Gòn. Phật học đường Phật Quang đã khó khăn lại gặp khó khăn hơn. Một mình Hòa thượng vừa lo dạy học, vừa lo đối phó với hoàn cảnh.

Đối nội, Hòa thượng vẫn kiên trì giữ vững lớp học. Dù gặp nhiều khó khăn, nào chùa bị đốt, học chúng bị phân tán, Hòa thượng vẫn thản nhiên duy trì phần còn lại. Hòa thượng thường nói: "Dù chỉ còn một Tăng sinh hiếu học tôi vẫn dạy đầy đủ như lúc ba mươi người". Quả thật, đến năm 1950, học chúng chính thức của lớp này không quá bốn người. Thế nhưng Hòa thượng vẫn dạy đều như thuở trước.

Đối ngoại, xã hội hiện thời đòi hỏi người dân phải làm công tác thật nhiều. Để bảo bọc cho Tăng chúng yên tâm tu học, Hòa thượng mở những lớp học trẻ con, do Tăng sinh đảm trách. Đồng thời Hòa thượng mở trạm y tế, để Tăng Ni thay nhau thuốc men giúp đỡ đồng bào. Mỗi ngày Tăng chúng làm công tác dạy học, chích thuốc trọn buổi sáng, buổi chiều tất cả đều vào lớp học kinh điển.

Hòa thượng lại mở những lớp học "Bình dân" dạy ban đêm để "chống nạn mù chữ". Lớp học này chỉ trong vòng 15 hôm, là học viên đọc và viết được. Sự học có kết quả nhanh chóng ấy là do Hòa thượng có sáng kiến soạn tập sách "Vần Chữ O".

Đích thân Hòa thượng chích thuốc, dạy lớp "Bình dân". Thế mà Hòa thượng vẫn thấy chưa đủ, Ngài lại xoay qua học chẩn mạch cho toa. Hòa thượng bảo học chúng: "Chúng ta cần đem Tứ Nhiếp Pháp và Ngũ Minh để giáo hóa chúng sinh, nhất là trong hoàn cảnh này".

2) Cộng tác Phật Học Đường Nam Việt Ấn Quang:
Đầu mùa Xuân năm 1953, Hòa thượng cùng tám đệ tử mang hành lý đến Phật học đường Nam Việt nhằm ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch. Sau cuộc họp của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, quý Hòa thượng đã đồng tình cử Hòa thượng giữ chức vụ Trưởng Ban giáo dục Giáo Hội Tăng Già Nam Việt kiêm Đốc giáo PHĐNV và chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.

a) Về phần Giáo Dục:
Với trách nhiệm đốc giáo PHĐNV, Hòa thượng đã tận tâm giảng dạy cho hai lớp Cao đẳng và Trung đẳng nơi đây. Đồng thời, Hòa thượng cũng dạy lớp Trung đẳng Ni chúng mở tại chùa Từ Nghiêm, sau dời về Phật học Ni trường Dược Sư.

Kết quả, hai lớp ở PHĐNV tại chùa Ấn Quang đã lần lượt ra trường. Những Tăng sinh lớp Cao đẳng ra trường đầu tiên là: Thầy Bửu Huệ, Thiền Tâm, Tắc Phước, Tịnh Đức… Lớp kế tiếp ra trường có những vị: Thầy Thiền Định, Huyền Vi, Thanh Từ, Từ Thông, Chánh Tiến, Quảng Long, Hoàn Quan v.v... Và những lớp sau này tiếp tục ra trường như Thầy Thắng Hoan, Đức Niệm, Liễu Minh, Trí Quảng, Huệ Thới, Minh Thành v.v...

Tại Ni trường Dược Sư đã đào tạo nên một số Ni chúng khả dĩ gánh vác được Phật sự đáng kể như: Ni sư Như Huyền, Hải Triều Âm, Diệu Hoa, Minh Ngọc, Giác Nhẫn, Trí Hòa, Trí Định, Tịnh Thường v.v...

Đến năm 1957 Hòa thượng lại chủ xướng mở những khóa huấn luyện trụ trì lấy tên là Như Lai Sứ Giả. Tăng giới đặt tại chùa Pháp Hội, Ni giới đặt tại chùa Dược Sư. Mỗi khóa ba tháng trong mùa hạ hoặc mùa đông. Kết quả, bên Tăng đã đào tạo năm mươi hai vị như: Thầy Trường Lạc, Bửu Lai, Trí Châu, Nhật Long v.v... Ni giới được ba mươi vị: Ni sư Vĩnh Bửu, Như Hoa, Phật Bửu, Giác Thiên v.v...

Với trách nhiệm Trưởng Ban Giáo Dục trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Hòa thượng đã khuyến khích mở trường Phật học ở các tỉnh như trường Phật học tại chùa Bình An Long Xuyên (1956), trường Phước Hòa ở Vĩnh Bình, trường Giác Sanh ở Phú Thọ, trường Biên Hòa và trường Phật Ân ở Mỹ Tho v.v...

Có thể nói hầu hết Tăng Ni miền Nam đương thời đều chịu ân giáo dục của Hòa thượng, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.

b) Về Hoằng Pháp:
Hòa thượng nhận chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và Hội Phật Học Nam Việt năm 1953. Đích thân Hòa thượng huấn luyện Tăng Ni sinh tại các Phật học đường để trở thành những giảng sư thật sự. Đồng thời, Hòa thượng cũng huấn luyện các vị trụ trì Tăng Ni đều có thể thành giảng viên trên lãnh vực của mình và đi diễn giảng các nơi khác. Chẳng những đào tạo Tăng Ni, Hòa thượng còn huấn luyện số cư sĩ đã chịu khó theo học các lớp giảng tại chùa Ấn Quang, khả dĩ đi diễn giảng các nơi được.

Hòa thượng mở các lớp giảng cho cư sĩ tại chùa Ấn Quang và chùa Phước Hòa sau dời về chùa Xá Lợi hằng tuần vào chiều chủ nhật. Chương trình Học Phật Phổ Thông do Hòa thượng chủ trương được một số chư Tăng góp sức lần lượt ra đời. Kế đó, mở lớp giảng tại chùa Giác Tâm Chi Hội Phật Học tỉnh Gia Định, chùa Dược Sư của Hội Phụ Nữ Phật Tử. Những nơi giảng này, Hòa thượng phân công những giảng sư do Hòa thượng huấn luyện thay nhau giảng dạy. Đích thân Hòa thượng thì giảng dạy Phật tử vào tối thứ năm hằng tuần tại chùa Ấn Quang.

Phong trào học Phật miền Nam trỗi dậy như cơn vũ bão, khắp các tỉnh Giáo hội và Hội Phật học đều gởi thơ về Trung ương xin mở lớp Học Phật Phổ Thông tại trụ sở mình. Thế là Hòa thượng phải phân phối giảng sư đi giảng dạy mỗi chỗ mười hôm, căn cứ theo mười bài Phật Học Phổ Thông, một năm giảng hai kỳ. Quả thật sinh khí đã len vào mọi tâm hồn Phật tử, khiến họ hăng say học Phật. Cứ như thế mãi ngót tám năm trời.

c) Trước tác và phiên dịch:
Từ năm 1953 đến năm 1965, Hòa thượng soạn xong 12 khóa Phật Học Phổ Thông, hay gọi là Cây Thang Giáo Lý. Hòa thượng còn soạn Bản Đồ Tu Phật (10 tập), Duy Thức Học (6 tập), tám quyển sách quý: Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhơn Quả Luân Hồi, Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Diệu Đế, Từ Bi Trong Đạo Phật, Chữ Hòa Trong Đạo Phật và Năm Yếu Tố Hòa Bình.

Về phiên dịch, Hòa thượng đã dịch được một số kinh điển Đại thừa như Lăng Nghiêm, Viên Giác, Kim Cang… Hòa thượng chủ trương một Phật Học Tòng Thư gồm có 8 bộ loại. Hòa thượng lại chịu trách nhiệm xuất bản đề tên nhà sách Hương Đạo.

Hòa thượng đã có sáng kiến quý báu, công trình trước tác, phiên dịch đáng kể. Ngài đã đóng góp cho nền văn hóa Phật giáo nói riêng, quốc gia nói chung một phần rất quan trọng.

Hòa thượng đã từng dạy Tăng Ni: "Chỗ nào chúng sanh mời thì mình đến, chỗ nào đạo pháp cần thì mình đi, không kể gian lao chẳng từ khó nhọc". Và Hòa thượng cũng thường quở trách Tăng Ni không chung lo Đạo pháp, chỉ bo bo giữ chùa riêng, bổn đạo riêng, bằng câu nói: "Một con trâu cũng tốn một thằng chăn, cả bầy trâu cũng chỉ một thằng chăn. Tại sao khuôn mình trong chỗ hẹp mà quên việc to lớn?". Những lời dạy bảo này thực phát xuất từ đáy lòng của Bồ-tát, nói lên bởi tâm lợi tha không bờ bến, lòng mến đạo không chừng ngằn.

Những Phật tử trong Ban Từ Thiện Ấn Quang, lắm khi ra làm Phật sự gặp nhiều điều khó khăn, về chùa than thở với Hòa thượng thì Hòa thượng dạy: Phật sự lúc nào làm được nên cố gắng mà làm, đến khi thiếu duyên dù có muốn làm cũng không thể làm được. Nên nhẫn nhục thông qua thì mới viên mãn công đức.

Trong thời gian này, những Phật sự tại miền Nam Tăng Ni hay cư sĩ làm được điều gì đều nhờ sự khuyến khích an ủi của Hòa thượng. Phật Học Viện Huệ Nghiêm được thành hình và tồn tại đến nay, cũng nhờ ơn Hòa thượng đôn đốc và ủng hộ. Đến như Ban Từ Thiện Ấn Quang, làm được những công tác từ thiện hay Phật sự nào đều có sự khuyến khích, nhắc nhở của Hòa thượng cả. Hoặc xây cất Niệm Phật Đường trong khám Chí Hòa, cất chùa trong Dưỡng Trí Viện Biên Hòa v.v... cũng do Hòa thượng cùng Hòa thượng Thiện Hòa đôn đốc.

Tóm lại, từ năm 1964 đến năm 1972, mọi Phật sự đáng kể ở miền Nam đều được Hòa thượng trợ giúp, hoặc trực tiếp hay gián tiếp.

V.- VIÊN TỊCH:
Hòa thượng khởi bệnh từ tối đêm 17 tháng 11 năm Canh Tý, sau ngày lễ vía Đức Phật A Di Đà, Ngài được đưa vào bệnh viện Đồn Đất điều trị. Bác sĩ cho biết bệnh của Hòa thượng cần phải được giải phẫu. Hòa thượng thường nói với các đệ tử đến thăm viếng: "Nếu kỳ đau này tôi phải chết, tôi rất hài lòng, vì đối với sự hoằng hóa tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Đối với Đạo Pháp tôi đã gánh vác được một giai đoạn khó khăn".

Sau khi giải phẫu, bệnh của Hòa thượng càng ngày càng nhẹ, ai cũng tin rằng không bao lâu Hòa thượng sẽ bình phục trở về chùa. Một hôm, Hòa thượng Thiện Hòa vào thăm Hòa thượng. Tuy cảm thấy bệnh tình đã nhẹ rồi, mà Hòa thượng vẫn dặn dò mọi việc, cho đến kinh sách hiện còn, đều giao cả cho Hòa thượng Thiện Hòa. Thấy điều lạ, Hòa thượng nói: "Nằm ít hôm nữa bệnh lành rồi về, nói chi chuyện ấy".

Bất thần, ngày 17 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng trở bệnh. Đến đêm 19 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng thấy mệt, biết mình không qua khỏi nên gọi các môn đệ đến bảo: "Các con niệm Phật cho Thầy vãng sanh, Thầy mệt quá rồi". Từ giờ phút ấy tiếng niệm Phật đều đều vang lên trong gian phòng hồi sinh. Từ đó Hòa thượng lặng lẽ dần dần đến 06 giờ 5 phút, sau một hơi thở dài rồi im lìm theo Phật!

Hòa thượng đã an lành viên tịch vào sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, thọ 55 tuổi và được 26 tuổi hạ.

Hòa thượng xong việc ra đi, nhưng để lại cho hàng Giáo phẩm trong Giáo hội bao nhiêu niềm mến tiếc. Tăng Ni cảm thấy bơ vơ hết chỗ tựa nương, hàng Phật tử mất đi một bậc Thầy hiền kính ái. Ngôi nhà Đạo pháp đã thiếu đi một cây thạch trụ chịu đựng!

VI.- NHẬN XÉT:
Hòa thượng Thiện Hoa là một tấm gương sáng cho hàng Tăng sĩ soi chung. Hòa thượng có những đức tánh cao quý, ai được sống gần Hòa thượng đều cảm mến.

Mặc dù là người xuất gia, nhưng Hòa thượng vẫn không quên chữ hiếu. Lúc Hòa thượng còn dạy học tại chùa Phật Quang, cụ bà cũng lập am gần đó. Mỗi khi cụ bà bệnh, đích thân Hòa thượng chích thuốc, hoặc chẩn mạch ra toa hốt thuốc. Phật sự ở trung ương rất bề bộn, mà những lúc bãi trường hay rảnh việc, thì Hòa thượng liền về thăm cụ bà. Đến khi cụ bà tịch, Hòa thượng gắng hết sức mình, cúng dường Tăng Ni, để cầu siêu cho mẹ. Quyển sách Bài Học Ngàn Vàng của Hòa thượng viết ra, cũng nguyện đem công đức đó hồi hướng cho cụ bà.

Về ân nghĩa, Hòa thượng thọ dụng của ai thì không bao giờ quên. Vì thế mỗi khi dạy đồ chúng, Hòa thượng thường nhắc lại công ơn của quý Hòa thượng xưa đã dạy bảo cho Hòa thượng. Chính ngôi chùa Phước Hậu mà Hòa thượng phải đứng ra vận động trùng tu năm 1952 cũng vì lẽ ấy. Bởi một hôm tổ Khánh Anh gọi Hòa thượng đến bảo: "Ngôi chùa này thí chủ cúng cho tôi từ năm 1941, trước kia lành lặn, đến nay (1951) đã hư mục. Tôi dành dụm được một số tiền là 150.000 đồng, định sửa chữa lại, nhưng thấy chưa đủ. Ông vận động phụ cho đủ để xây cất lại, nếu tôi có theo Phật cũng được an lòng". Thế rồi đầu năm 1960 Tổ viên tịch. Hòa thượng nhận lấy trọng trách đó, nên đã cố gắng vận động trùng tu cho Tổ hài lòng nơi cõi Phật.

Hòa thượng lúc nào cũng sẵn sàng một tâm niệm bao dung hòa ái. Ít ai thấy được trên khuôn mặt của Người lộ vẻ bất bình, cũng ít ai nghe được nơi Người thốt ra những lời bực nhọc. Dù hạng người nào đến đều được Hòa thượng tiếp chuyện một cách vui vẻ từ tốn. Nếu có ai bực tức phê bình, giữa vị này với vị nọ, Hòa thượng đều tìm cách xoa dịu, hòa giải. Hòa thượng lúc nào cũng muốn hòa nhau trong tình Đạo, không chịu thấy sự rạn nứt chia ly.

Tuy Hòa thượng thích nhu hòa mà cương nghị. Đường lối của Hòa thượng và của Giáo hội đã vạch ra, dù gặp khó khăn đến mấy, cũng vẫn từ từ mà tiến tới. Tuy khiêm tốn mà vẫn bất khuất, tuy nhu hòa mà lại vững vàng. Đó là lập trường cố hữu của Hòa thượng.

Cuộc đời của Hòa thượng hy sinh trọn vẹn cho Đạo pháp. Từ lúc lớn khôn cho đến ngày theo Phật, lúc nào Hòa thượng cũng chỉ biết lo cho Đạo và làm việc cho Đạo.

Sự nghiệp quan trọng nhất trong đời của Hòa thượng, là những tác phẩm và dịch phẩm do nhà xuất bản Hương Đạo ấn hành. Thế mà Hòa thượng đã viết: "Những tác phẩm hay dịch phẩm của nhà Hương Đạo chúng tôi, sau khi tu chỉnh hoàn bị, và thanh toán tất cả nợ nhà in rồi, chúng tôi sẽ làm lễ hiến cúng cho giáo hội hay những người nối theo chí nguyện phiên dịch và sáng tác của chúng tôi. Quả thật Hòa thượng không còn gì cả. Chính chỗ không còn, không có gì cả đó, mà Tăng Ni và Phật tử mới chân thành kính mến Hòa thượng.

DƯỠNG TÁNH của TỔ SƯ

 Sự nghiệp quan trọng nhất trong đời của Hòa thượng, là những tác phẩm và dịch phẩm do nhà xuất bản Hương Đạo ấn hành. Để tưởng niệm lại công đức của Tổ sư, chúng ta cùng nhau lắng lòng ôn lại những lời dạy của Ngài qua một trích đoạn trong bài Dưỡng Tánh sau đây:

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường nghe hay thường quen miệng nói đến hai chữ “tu dưỡng” chẳng hạn như: “Con nên tu dưỡng tánh tình để thành người có đức hạnh” hay “Nó hư vì không biết tu tâm dưỡng tánh”. Hai tiếng tu dưỡng thường đi đôi với nhau, nên chúng ta thấy mường tượng như chúng nó nghĩa giống nhau. Thật ra, mỗi chữ có một nghĩa khác nhau, có một phạm vi, một tác dụng riêng biệt. Tu là sửa, mà dưỡng là nuôi. Người ta sửa cái xấu, mà nuôi cái tốt. Sửa là trừ mà nuôi là cộng; tu có tánh cách tiêu cực, dưỡng có tánh cách tích cực. Một bên tiêu trừ cái xấu, một bên bồi bổ cái tốt. Một bên làm cho hết hư, một bên làm cho thêm nên. Mọi sự vật trong cuộc đời tương đối này đều có phần xấu và phần tốt. Đối với cái xấu ta phải tu, đối với cái tốt ta phải dưỡng. Chẳng hạn khi ta trồng một cây gì, công việc của chúng ta có hai phần lớn: bắt sâu bọ, trừ nước phèn, nước mặn, đó là tu hay sửa. Bón phân tưới nước ngọt cho nó đủ thoáng khí và ánh nắng mặt trời, đó là bổ hay dưỡng. Tu bổ một cái cây cho nó đôm hoa kết trái là thế.

Công việc trồng cây Bồ-đề trong mỗi người chúng ta cũng tương tự như thế, nhưng tất nhiên là phải tốn nhiều công phu tu bổ hơn, vì nó rất khó trồng. Nó không chịu được bóng rợp si mê của rừng vô minh, mà phải có ánh sáng của mặt trời trí tuệ. Nó không chịu được nước phèn nước mặn của ao sân hận, độc ác, mà phải có nước ngọt của suối từ bi, nó không chịu được xú khí của đóng rác phiền não ô trọc, mà phải có không khí trong sạch của bầu trời thanh tịnh. Nó không thể sống trên một miếng đất lồi lõm, nơi cao nơi thấp của triền núi bất bình đẳng, mà chỉ sống giữa đồng bằng bình đẳng. Nhưng ở đây chúng ta phải coi chừng trâu bò của anh chàng trọc phú tham lam, thường thả rong ăn phá. Để ngăn đón những dẫm đạp, ta phải làm một cái hàng rào trì giới hay xây một cái thành tự tại. Ta lại còn phải luôn luôn tìm bắt cho hết những con sâu ích kỷ, giải đãi, tiêu cực, nghi ngờ. Trong công việc này, ta cần nhờ sự giúp sức của những con kiến lợi tha, nhẫn nhục, tích cực, tinh tấn, để diệt trừ trong trứng những con sâu bọ kia.

Thế thì, trong công việc trồng cây Bồ-đề này, mặc dù phức tạp, nhưng có thể chia làm hai loại chính: một loại là bài trừ những ảnh hưởng xấu ở chung quanh gọi là tu, một loại là bồi bổ cho cái mầm quý báu của cây Bồ-đề mỗi ngày mỗi lớn mạnh gọi là dưỡng. Hai loại công việc ấy, người trồng cây Bồ-đề không được xem loại nào trọng loại nào khinh, loại nào cần thiết, loại nào bỏ qua. Tu mà không dưỡng thì kết quả khó thành, dưỡng mà không tu thì kết quả khó toàn vẹn.

Nhưng chúng ta đừng nên thấy công việc trồng cây Bồ-đề này khó khăn, phức tạp mà ngã lòng, thối chí. Không có công việc gì tốt đẹp vĩ đại mà không khó khăn. Không có hoa hường nào mà không có gai. Vì sợ gai mà ta không dám hái hoa hường sao? Cây Bồ-đề một khi nhờ công phu tu dưỡng của ta mà đơm hoa kết trái thì công dụng của nó thật vô cùng lớn lao. Không phải riêng ta mà muôn ngàn người đều được hưởng thụ. Sách có nói “Nhất nhân tác phước thiên nhân hưởng, độc thọ khai hoa vạn thọ hương”, nghĩa là một người làm phước muôn người được hưởng, một cây trổ hoa muôn cây đều được thơm lây.

Dưỡng tánh ở đây là dưỡng tánh gì? Tất nhiên không phải là tánh tình tầm thường có tốt có xấu của chúng ta, cũng không phải tánh thiện mà thầy Mạnh Tử thường nói. Tánh đây là tánh Phật. Tánh Phật ở đâu mà dưỡng? Thưa, nó có sẵn trong mỗi người chúng ta. Phật dạy “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Song vì chúng sanh không biết dưỡng tánh Phật của mình, để cho nó bệnh hoạn, gầy mòn, tiều tụy, nên nó không có sức để phát sinh những đức tánh phi thường và đưa chúng ta đến quả vị Phật. Vì không biết dưỡng tánh Phật nên từ vô thủy đến giờ, chúng ta bị trầm luân trong biển khổ sanh tử, vĩnh kiếp làm chúng sanh. Nay nếu chúng ta không sớm lo dưỡng tánh Phật của mình, thì từ đây về sau, chúng ta cũng vẫn còn quanh quẩn mãi trong nẻo tối luân hồi.

Tánh Phật cũng gọi là Bồ-đề, Niết-bàn, Chân tâm… Tánh Phật không có một chút cáu bẩn mà hoàn toàn trong sạch. Tánh Phật không giới hạn mà rộng rãi mênh mông như vũ trụ. Tánh Phật không có nhược điểm mà đầy đủ công năng, diệu dụng.

Sau đây, chúng tôi chỉ trình bày một số ít những đức tánh Phật của các kinh điển thường nói đến thôi.

1. Trí tuệ:

Trí tuệ là tánh sáng suốt xét soi cùng khắp không bị ngăn che, trở ngại. Trí tuệ tiếng Phạn gọi là “Prajna”, tiếng Trung Hoa dịch âm là Bát-nhã hay Đại trí tuệ. Để chỉ rõ cái rộng lớn linh diệu, hiệu quả của trí tuệ, nhiều khi trong kinh còn gọi là Bát-nhã Ba La Mật, nghĩa là trí tuệ sáng suốt cùng tột và chắc chắn sẽ đưa người tu hành đến quả vị Phật.

Nếu vô minh là cái màn đen tối bao trùm vạn vật, làm cho chúng sanh không nhận được sự thật của vũ trụ vạn hữu và do đó làm cho chúng sanh phải đau khổ thì trí tuệ trái lại, là khí giới duy nhất có công dụng phá tan được màn vô minh ấy, làm cho chúng sanh thấy rõ được sự thật vũ trụ vạn hữu và thể nhập vào sự thật ấy, để sống một cuộc sống an vui tốt đẹp.

Nói về trí tuệ, trong kinh Di Giáo, Phật có dạy:

“Người có trí tuệ không tham trước, tự tại, sáng suốt, tránh khỏi hố hầm tội lỗi. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền kiên cố, đưa chúng sanh khỏi biển khổ sông mê, là ngọn đèn sáng soi miền hắc ám, là liều thuốc chữa được muôn ngàn bệnh tật, là chiếc búa sắt đập tan rừng phiền não, là lưỡi dao bén cắt đứt lưới vô minh”.

Khi nói đến trí tuệ nhiều người tưởng lầm theo nghĩa trong đạo Phật cũng như sự thông minh hiểu biết giữa thế gian, nhưng chỉ khác là trí tuệ của Phật rộng rãi, sáng suốt hơn. Thật ra, sự thông minh hiểu biết của thế gian và trí tuệ của Phật có nhiều điểm sai khác. Do sự sai khác đó, giáo lý kinh điển Phật giáo phân biệt hai thứ trí tuệ: trí tuệ thế gian và trí tuệ trong đạo Phật.

Trí tuệ thế gian là cái hiểu biết của thế gian, còn nhiều sai lầm, sơ sót khiến cho người ta cứ trôi lăn mãi trong ba cõi sáu đường. Trí tuệ thế gian có chia làm hai thứ:

1. Có thứ thông minh láu lỉnh, thấy rộng biết nhiều nhưng bất thiện. Nó chỉ biết phụng sự do dục vọng ích kỷ, thỏa mãn bản ngã hẹp hòi, làm tay sai cho cái ác. Cái biết này thật là nguy hiểm hơn cả cái ngu si nữa, vì nó làm cho con người mất hết cả lương tri, ác hơn cầm thú. Cho nên đức Phật bảo rằng cái thông minh này là một nạn lớn trong tám nạn.

2. Có thứ thông minh mẫn tiệp, hiểu biết đâu là thiện nên làm, đâu là ác nên tránh, biết làm những điều lợi ích cho nhân quần xã hội. Tuy thế, cái biết này cũng không giúp cho con người thoát ra khỏi vòng khổ não, luân hồi. Vì thế cho nên gọi là trí tuệ thế gian.

Trí tuệ trong đạo Phật cũng chia làm hai thứ:

1. Hữu lậu trí: Cái trí chưa có năng lực đoạn các phiền não hữu lậu. Nghĩa là trong lúc ở địa vị phàm phu tu nhân, tuy dùng trí tuệ quán sát thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã, nhưng rồi lúc nào cũng thấy là tịnh, là vui, là thường, là thật ngã, còn bị phiền não hữu lậu lấn áp, không thể phá trừ được.

2. Vô lậu trí: Cũng gọi là Bát-nhã trí. Trí này đã phá trừ các phiền não hữu lậu, đạt đến chỗ rốt ráo thanh tịnh, nhưng chỉ khi đạt Thánh quả mới có. Trí này có hai phần: Về phương diện “thể” tức là căn bản trí, cũng gọi là thật trí, vô phân biệt trí, như lý trí, chân trí. Về phương diện “dụng” tức là hậu đắc trí. Sau khi được căn bản trí rồi mới có trí này, cũng gọi là quyền trí, sai biệt trí.

Người ta sống trong đời như đi trong đêm tối, như chèo ghe giữa biển mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Trí tuệ thế gian là ngọn đèn soi sáng khoảng đường ta đi, là địa bàn chỉ phương hướng cho ta đến. Người hơn vạn vật, làm chủ được muôn loài là nhờ trí tuệ, nền văn minh tiến bộ về vật chất của nhân loại ngày nay cũng nhờ trí tuệ. Nhưng dù văn minh đến đâu thì loài người cũng không vượt thoát được cảnh giới Ta bà này, cũng vẫn còn đau khổ, vẫn còn chịu sự chi phối của bệnh tật già yếu, chết chóc, sầu thương. Muốn thoát khỏi cảnh khổ thế gian, phải nhờ trí tuệ của Phật. Trí tuệ của Phật có nhiều công năng, diệu dụng khác với thế gian trí.

Mỗi chúng ta đều có sẵn cái mầm trí tuệ của Phật. Nhưng cái mầm ấy không được vun trồng, săn sóc, thiếu đất, thiếu nước, thiếu không khí nên không nẩy sanh được cây Bồ-đề. Cái chất trí tuệ ấy như ngọc lẫn lộn trong đá, không được mài dũa nên ánh sáng không phát ra.

Muốn có được trí tuệ như Phật, chúng ta phải tu theo các pháp mà Phật đã chỉ dạy. Những pháp này nhiều không xiết kể, nhưng chúng ta nên lựa vài pháp môn thông thường có thể thực hiện được trong đời sống hàng ngày của chúng ta.

Trước tiên, chúng ta phải biết nghe, biết thấy (Văn). Không phải chỉ nghe những điều thiết yếu của Phật dạy, thấy những điều thiết yếu trong kinh điển là đủ. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có thể nghe thấy những điều bổ ích chung quanh. Trong khi nghe, thấy, quan sát, chúng ta cố gắng đừng để cho dục vọng, ích kỷ dính vào cái thấy, cái nghe, cái quan sát của ta. Đừng yêu, đừng ghét, đừng thiên vị cái mà lòng tự kỷ yêu ghét thiên vị. Nói một cách khác là đừng để cho cái ta hẹp hòi bắt buộc ta chỉ mở mắt nhìn cái nó thích, nghe cái nó ưa và nhắm mắt bịt tai, không cho lọt vào mắt ta, tai ta cái nó không ưa, không thích. Đừng sợ sự thật, đừng sợ ánh sáng, nhất là khi sự thật ấy có thể làm mất lòng “cái ta”, khi ánh sáng ấy có thể làm chói mắt “cái ta”. Ở đời biết bao nhiêu người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, vì mắt tai bị cái màn của thói quen, thành kiến, quyền lợi, thất tình, bản ngã che lấp.

Vậy trước khi nghe, khi nhìn, hãy vén cái màn đen tối ấy lên đã. Nghe thấy, quan sát một cách sáng suốt, khách quan cũng chưa đủ để thấy rõ được sự thật nằm bên trong sự vật. Phải dùng trí để suy nghiệm (Tư), xét soi tất cả mọi khía cạnh, chia chẽ sự vật để thấy được cái lõi, cái nguyên lý của nó. Bất luận một lời nói, một cử chỉ, một hành động gì, trước khi làm, ta cũng phải dùng trí tuệ để soi xét cho thấu đáo ngọn ngành. Hãy nên luôn nhớ rằng si mê là gốc của muôn tội lỗi, trí tuệ là gốc của muôn hạnh lành. Tổ sư có dạy một câu rất thâm thúy “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì” (không sợ tham sân nổi dậy, mà chỉ sợ trí tuệ tự giác chậm chạp, không phát lộ). Nói một cách khác là ta hãy luôn luôn cảnh giác, tỉnh táo, sáng suốt, dùng đuốc trí tuệ soi sáng đời ta.

Biết chân chánh cũng chưa đủ, cần phải thực hành theo cái biết ấy (Tu). Biết mà có thực hành mới có thực nghiệm. Có thực nghiệm, thực chứng mới thật là biết. Thực hành là cái lò để luyện thép trí tuệ, là viên đá để mài ngọc trí tuệ. Không thực hành thì cái biết ấy chỉ là cái biết suông, không đủ sức để đuổi xa tà niệm, phá tan màn vô minh, thân chứng lý vô ngã, thể ngộ pháp vô sanh.

Muốn trau giồi trí tuệ cho có kết quả, người Phật tử phải thực hành theo pháp tam Vô lậu học Giới Định Tuệ.

Giới là ngăn chận, đón giữ tà niệm, vọng tâm, không cho nó phát sanh. Giới là bức thành cao ngăn giặc phiền não, là đạo quân tinh nhuệ dẹp trừ ma vương. Giới là bóng đèn bao bọc ngọn đèn trí tuệ, không cho gió vô minh làm xao động hay thổi tắt.

Định là pháp làm cho thân tâm định tỉnh, là tham thiền nhập định. Định như ngọn đèn không bị gió làm xao động, tập trung được ánh sáng soi chiếu rộng khắp. Định như ly nước được để yên một chỗ, làm cho bao nhiêu cáu bẩn đều lắng xuống đáy ly. Định như mặt nước hồ yên lặng, phẳng lì có thể phản chiếu được rõ ràng bầu trời cây cỏ.

Tuệ là sự soi sáng, sự phát ra ánh sáng với bao nhiêu diệu dụng của nó, làm cho kẻ tu hành thấy biết được rõ ràng thật tướng của nhân sinh, vũ trụ, nguồn gốc của đau khổ, con đường đưa đến giải thoát hoàn toàn.

Làm được như thế gọi là dưỡng tánh trí tuệ của Phật mà mỗi chúng ta đều đã sẵn có ở trạng thái tiềm phục trong ta.

2. Từ bi:
Từ bi là do hai chữ từ và bi ghép chung lại. Theo trong kinh Phật, từ là lòng thương yêu, thường đem vui cho tất cả chúng sanh, bi là lòng thương xót, thường dứt trừ đau khổ cho hết thảy chúng sanh. Trong tứ vô lượng tâm thì từ bi đứng đầu. Hai chữ từ bi sắp theo văn phạm Trung Hoa thì ý nghĩa không nghịch, nhưng theo tiếng Việt chúng ta thì nên để bi trước từ sau, vì bi là nhân mà từ là quả. Tại sao thế? Vì nếu có lòng thương yêu, muốn ban vui cho chúng sanh, trong khi họ đang bị đau khổ dày vò thì cái vui ấy chỉ là cái vui gắng gượng. Vậy muốn cho họ hưởng sự vui vẻ đầy đủ, trước phải trừ dùm đau khổ cho họ, rồi ban vui. Như thế cái vui mới được hoàn toàn.

Chữ từ bi của đạo Phật không có phạm vi, nó bao la vô tận. Nó lan từ gia đình, xã hội, chủng tộc, nhân loại ra đến toàn thể chúng sanh, cây cỏ. Nó không có thân sơ, thù bạn, xa gần, mạnh yếu, nó lan bằng như nước, chỗ nào thấp thì chảy đến trước, nhận được nhiều, chỗ nào cao thì chảy đến sau, nhận ít, nhưng bao giờ nó cũng đồng đều ở trên mặt. Kẻ nào đau khổ nhiều thì được cứu nhiều, kẻ nào đau khổ ít thì cứu ít, nhưng mục đích bao giờ cũng làm cho mọi người, mọi vật đều thoát khổ và yên vui bằng nhau. Tinh thần từ bi bao giờ cũng bình đẳng, nhưng trong thực hành thì có sai khác tùy trường hợp, tùy nhân duyên.

Từ bi không những bao la, bình đẳng, mà còn sáng suốt vô cùng. Trí tuệ của Phật đã đánh tan cái ngã, cho nên từ bi của Phật không dựa trên cái ngã hẹp hòi. Do đó từ bi rất sáng suốt. Từ bi nhờ trí tuệ soi sáng, nhận thấy được rằng toàn thể là mình, mình là toàn thể. Chúng sanh mặc dù chia ra sáu loại nhưng tựu trung vẫn đồng một bản thể như nhau. Nói một cách tổng quát thì từ bi là tình thương phát xuất từ sự sống, trở lại thương sự sống và quyết tâm dứt trừ đau khổ đã bám víu vào sự sống, trong muôn hình vạn trạng. Sự sống đã bao la, bình đẳng, sáng suốt thì từ bi cũng bao la, bình đẳng, sáng suốt như thế.
Từ bi không phải là một lý thuyết suông, không phải là một lý tưởng tốt đẹp để cho người nhìn ngắm. Nó không phải là một sức mạnh thụ động, mà là cả một sức mạnh hoạt động không ngừng. Từ bi là nguồn gốc của muôn hạnh lành, những hành động tốt đẹp đều do lòng từ bi mà ra cả. Trước hết, vì từ bi nên ta bố thí. Do bố thí mà dứt được lòng tham lam bỏn sẻn. Vì từ bi nên ta trì giới. Do trì giới mà ta không sát sanh hại vật. Vì từ bi nên ta nhẫn nhục, nhờ nhẫn nhục mà ta dập tắt được nóng giận, thù hằn. Vì từ bi nên ta tinh tấn. Do tinh tấn mà ta trừ được lười biếng. Vì từ bi nên ta chuyên tâm định tỉnh. Do định tĩnh mà ta hết bối rối loạn động. Vì từ bi nên ta luyện trí tuệ. Do luyện trí tuệ mà mê lầm tiêu tan.

Nhờ từ bi mà muôn vật đỡ bị sát hại đau đớn, nhờ từ bi mà nhân loại đỡ chiến tranh, nhờ từ bi mà loài người bớt thù oán, nhờ từ bi mà người nghèo bớt đói lạnh, người giàu bớt tham lam, nhờ từ bi mà người ngu được khai ngộ, người độc ác trở lại hiền lành, người sợ hãi trở lại yên tâm. Tóm lại, nhờ từ bi mà cõi ta bà này bớt tiếng than khóc, bể sâu vơi nước mắt, nụ cười nở lại trên môi.

Tánh từ bi đã nằm sẵn trong tâm mỗi chúng ta. Chúng ta không cần phải cầu xin, mua chuộc nó ở một vị chúa tể nào, thần linh nào cả. Hạt giống ấy đã nằm sẵn trong tâm hồn chúng ta, nhưng nó đang bị phủ lấp dưới bao lớp sân hận, tham lam, ích kỷ, nên không thể đâm chồi nẩy mộng, trồi đầu lên được. Vậy công việc đầu tiên của người dưỡng tánh từ bi là phải phanh gỡ lần những lớp chướng ngại, để cho mầm từ bi nẩy lên. Khi nó đã ngoi lên khỏi mặt đất, chúng ta phải tìm mọi nhân duyên, mọi cơ hội thuận tiện cho nó chóng đâm chồi nẩy lá. Công việc không phải chỉ trong năm ba ngày, một tháng, một năm, mà suốt cả đời. Cũng không phải chỉ săn sóc nó trong những cơ hội thuận tiện lớn lao, mà bỏ mặc nó trong những hành vi, cử chỉ nhỏ nhặt tầm thường hàng ngày. Muốn dưỡng tánh từ bi ta phải làm tất cả việc lành, tránh các việc dữ, dù to dù nhỏ, dù trước mặt muôn người hay chỉ một mình ta, dù được khen hay bị chê, dù dễ hay khó.

Cảnh khổ không phải chỉ có trong loài người, mà chung cho cả sinh vật. Cho nên người dưỡng tánh từ bi không phải chỉ cứu giúp loài người đỡ khổ, mà còn biết thương yêu gia súc, xem chúng như những người giúp việc trong nhà, tránh làm đau khổ chúng một cách vô ích. Cho đến cây cỏ, người dưỡng tánh từ bi cũng không nên tàn phá một cách vô ích. Nên nhớ rằng nó cũng có sự sống, và đã có sự sống tất nhiên muốn bảo tồn sự sống. Lòng yêu thương cây cỏ, giúp cho ta nhận thấy được lẽ huyền vi của sự sống, thông cảm với cái chung cùng của muôn vật và trực nhận được cái bản thể của vũ trụ.

Tóm lại, làm được tất cả các việc trên, từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, không bao giờ thối chuyển ngã lòng, mở rộng, mở rộng mãi lòng từ bi cho nó bao trùm được cả pháp giới. Như thế là dưỡng tánh từ bi của Phật, mà mỗi chúng ta đều có sẵn ở trạng thái tiềm tàng trong tâm chúng ta.

Hình ảnh Sư Ông sáng 19 tháng chạp Mậu Tý

Sư Ông đi dạo quanh TV sáng ngày 15/01/2009


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ


THIỀN VIỆN TRÚC LÂM VIÊN NGỘ


Trụ trì : Đại đức Thích Thông Huệ
Địa Chỉ: Thị trấn Khánh Hải - Hải Ninh- Tỉnh Ninh Thuận

ĐT: 0583 - 891570
Email:
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.">This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.


Thiền viện hiện đang tọa lạc tại khu di tích lịch sử Núi Đá Chồng. Đây là địa linh của tỉnh Ninh Thuận, với tên gọi là Phụng Sơn. Trước đây, trên núi có văn miếu thờ đức Khổng Phu Tử, nhưng đã trở thành phế tích.

Theo đề án xây dựng và hồ sơ thiết kế chi tiết, thiền viện Trúc Lâm Viên Ngộ sẽ được xây dựng chủ yếu bằng đá và gỗ quí. Gồm hai khu riêng biệt là Tăng viện và Ni viện. Toàn khu thiền viện gồm 23 hạng mục công trình như cổng Tam quan, chánh điện, nhà tổ, thiền đường, v.v…

Đặc biệt miếu Văn Thánh thờ đức Khổng Tử, đã điêu tàn qua bao năm tháng, nay đã được sửa lại khang trang hơn, với ba gian thờ đức Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử, nằm ở phía trước của ngôi miếu cũ. Riêng di tích hòn đá sẽ được giữ nguyên hiện trạng, để huyền thoại của núi mãi được lưu truyền cho hậu thế.

Thiền viện Trúc Lâm Viên Ngộ đã làm lễ đặt đá xây dựng vào ngày 6/12/2008 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Mậu Tý) dưới sự chứng minh của chư tôn giáo phẩm Giáo Hội Phật giáo Việt nam, ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Ninh Thuận, đại diện Ban Quản trị thiền phái Trúc Lâm, cùng với quan khách đại diện chính quyền, mặt trận và các ban ngành đoàn thể các cấp …

Một số hình ảnh TVTL Viên Ngộ  


 

 

 


 

Lễ đặt đá TVTL Viên Ngộ

LỄ ĐẶT ĐÁ 

THIỀN VIỆN TRÚC LÂM VIÊN NGỘ

Thị Trấn Khánh Hải, Ninh Hải, Tỉnh Ninh Thuận
ĐT: 0583 -891570
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.">This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

THÁNG 10/11 - MẬU TÝ (06/12/2008)

]]]

-  Phấn 01 -

 

-  Phấn 02 -

 

-  Phấn 03 -

 

-  Phấn 04 -