SỰ SAI BIỆT GIỮA PHẬT HỌC VÀ KHOA HỌC
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ hai, 27 Tháng sáu 2011 05:12
 Đề tài  chúng tôi sẽ trình bày hôm nay là Sự sai biệt giữa Phật học và khoa học.  Có thể quí vị cho rằng ai không biết Phật học và khoa học sai biệt. Nhưng sai  biệt ở điểm nào, sâu cạn ra sao lại là một vấn đề cần phải thảo luận cho rõ  ràng. Để từ đó chúng ta thấy được nếu biết ứng dụng khoa học, Phật học vào cuộc  sống sẽ có những lợi ích thế nào.
Đề tài  chúng tôi sẽ trình bày hôm nay là Sự sai biệt giữa Phật học và khoa học.  Có thể quí vị cho rằng ai không biết Phật học và khoa học sai biệt. Nhưng sai  biệt ở điểm nào, sâu cạn ra sao lại là một vấn đề cần phải thảo luận cho rõ  ràng. Để từ đó chúng ta thấy được nếu biết ứng dụng khoa học, Phật học vào cuộc  sống sẽ có những lợi ích thế nào.
Có  nhiều vị nghiên cứu khoa học mà thiếu phần tìm hiểu Phật học, nên họ nói Phật  học có vẻ tiêu cực yếm thế. Số người thấy khoa học lúc nào cũng nghiên cứu, phát  minh những điều lợi ích cho nhân loại, còn Phật học không có gì kỳ đặc, do đó họ  hiểu lầm Phật học tiêu cực. Ngược lại cũng có một số vị bênh vực Phật học bằng  cách chứng minh rằng Phật học cũng là khoa học. Như vậy hai cái nhìn đó khiến  cho chúng ta khó biết rõ sự sai biệt của nó như thế nào. Ở đây tôi nói thứ tự sự  sai biệt đó theo cái nhìn của chúng tôi.
 
 Sai biệt thứ nhất là sai biệt trên mục đích. Mục đích của khoa học là phục vụ  con người bằng mọi phương tiện, đem lại sự no ấm sung mãn về vật chất. Cụ thể  chúng ta thấy, tổ tiên mình ngày xưa gần xa gì cũng đi bộ hoặc đi thuyền. Ngày  nay khoa học phát triển dần dần, con người đi xe rồi tiến lên tới phi cơ. Thời  gian ngày xưa đi đứng nhọc nhằn, lâu lắc mười phần trăm phần, bây giờ rút lại  còn một hai phần. Như vậy, nhờ tiến bộ của khoa học thời gian được rút ngắn, đem  nhiều lợi ích lớn cho con người.
 
 Kế đến, ngày xưa sự sống yếu kém, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu vật chất. Ngày nay  khoa học đã tạo điều kiện, phát minh những thứ cần thiết cho con người đỡ thiếu  thốn. Chúng ta làm ít mà được nhiều, thời gian rút ngắn mà kết quả bằng hoặc hơn  ngày xưa. Vì thế khoa học hiện nay được xem là vạn năng. Đó là cái nhìn của  những nhà nghiên cứu về khoa học.
 
 Còn mục đích của Phật học thì thế nào? Nói tới mục đích của Phật học, nhiều  người còn phân vân chưa hiểu. Phật học đưa chúng ta tới đâu, có lợi ích gì cho  con người. Về điểm này đa số còn ngờ chưa thấu suốt. Muốn nói tới mục đích của  Phật học, tôi dẫn sử đức Phật Thích-ca khi còn làm Thái tử. Ngài dạo bốn cửa  thành thấy cảnh sanh già bệnh chết, trong lòng băn khoăn thắc mắc mãi: “Con  người từ đâu đến? Khi chết sẽ đi về đâu? Muốn ra khỏi sự sanh tử đó phải làm thế  nào?” Đó là ba câu hỏi Ngài đã cưu mang trước khi đi tu.
 
 Câu hỏi thứ nhất là, nhìn vào hình thức vật chất của con người, trước khi cha mẹ  chưa sanh ta từ đâu đến? Lúc đó ta là vật chất hay tâm linh? Câu hỏi thứ hai,  sau khi chết ta còn hay mất? Nếu còn thì đi đâu? Câu hỏi thứ ba, người tu hành  muốn ra khỏi vòng sanh tử đó phải làm sao? Cái ra khỏi vòng sanh tử là vật chất  hay tâm linh? Đó là ba vấn đề, mà tất cả những ai khi muốn nghiên cứu đạo Phật,  phải phăng tìm tận nguồn gốc.
 
 Ba câu hỏi trên đều nhắm thẳng vào tâm linh của con người. Bởi vì khi chưa có  Sắc thân này thì đâu có vật chất, cho nên trước khi có thân là phần tâm linh.  Sau khi thân này hoại đi thì thân vật chất không còn nữa, nên phần còn lại cũng  thuộc về tâm linh. Muốn ra khỏi vòng sanh tử tức là thoát khỏi sự vay mượn thể  xác vật chất, đây cũng lại là tâm linh. Như vậy mục đích của đạo Phật giúp chúng  sanh tìm cho ra cái lâu nay luôn thuộc về mình nhưng ta lại khó nhận khó thấy,  vì nó vô hình. Nó chính là phần tâm linh.
 
 Từ ba thắc mắc trên, Thái tử Tất-đạt-đa quyết chí đi xuất gia tu hành để giải  quyết cho xong ba vấn đề ấy. Như vậy, mục đích đức Phật đi tu là để giải quyết  vấn đề con người, con người cốt lõi bên trong chớ không phải con người vật chất.  Con người vật chất ai cũng thấy, cũng biết nhưng cái cốt lõi trước khi có thân  này và sau khi bỏ thân này, chúng ta thế nào? Làm sao ra khỏi vòng sanh tử? Đây  mới là vấn đề trọng yếu.
 
 Nói rõ hơn, mục đích của khoa học là phục vụ con người về vật chất, về thể xác.  Mục đích của Phật học là phăng tìm cho ra cái tâm sẵn có từ xưa nay của con  người hay của muôn loài. Tâm linh đó biến chuyển như thế nào, đưa đẩy chúng ta  tới đâu. Vấn đề này quá ư siêu thoát, không hình tướng, không tăm dạng nên muốn  suy tìm thật hết sức khó khăn. Khi thành đạo viên mãn đức Phật thấu triệt được  ba vấn đề trên, gọi là chứng Tam minh, Ngài hoàn toàn giải thoát sanh tử, không  gì có thể buộc ràng nữa.
 
 Nhà Phật thường nói tới thế giới và con người. Thế giới là y báo, con người là  chánh báo, tức con người là chủ, thế giới là phụ thuộc. Quí vị có đồng ý như vậy  không? Ngày nay người ta ưng làm cho thế giới tan nát thì nó tan nát ngay. Rõ  ràng con người là chủ tạo tác mọi thứ. Người đời cứ chạy theo nhu cầu của thể  xác, mà bộ chỉ huy của thể xác này là phần tâm linh. Có nghĩ mới nói, có nghĩ  mới làm nên, ý nghĩ là bộ chỉ huy. Chúng ta thấy như thân này tự hoạt động, sự  thật đều do tâm linh chỉ huy tất cả. Nếu tâm linh sáng suốt thì chỉ huy tốt, tâm  linh mờ tối thì chỉ huy sai lầm.
 
 Khoa học lo cho phần xác thịt, còn Phật học phăng tìm cho ra nguồn gốc quan  trọng của tâm linh, để điều khiển chỉ huy phần thể xác tốt đẹp. Đó là nói tổng  quát hai cái khác giữa khoa học và Phật học. Đi sâu hơn, chúng ta thấy khoa học  càng tiến, nhân loại càng thụ hưởng vật chất sung mãn thì con người càng lo sợ.  Nhiều người đặt câu hỏi “không biết ngày mai loài người sẽ như thế nào”. Bởi vì  trước bước tiến như vũ bão của khoa học, lỡ những người có trọng trách lớn,  quyền thế cao trong khoa học mà nóng giận, oán thù thì nhân loại sẽ ra sao? Chắc  loài người hồi hộp từng cơn. Khoa học làm cho con người được sung mãn vật chất,  khoa học cũng làm cho con người lo sợ không yên. Như vậy ưu và khuyết của khoa  học tồn tại song hành.
 
 Phật học chỉ nhắm thẳng xây dựng phần tâm linh của con người. Phần tâm linh ít  ai thấy, ít ai biết nhưng nó làm chủ, sai khiến chúng ta. Bởi nhắm thẳng vào chỗ  đó, nên bước đầu của đạo Phật là xây dựng cho con người có trí tuệ dẹp bỏ tham  sân si. Bỏ được tham sân si rồi, lòng từ bi phát sanh có đầy đủ tình thương cứu  giúp những kẻ đau khổ, hoàn toàn không có tâm niệm hại người hay báo thù trả oán  cũ. Người có trí tuệ sáng suốt có thể nghèo khổ, nhưng luôn sống vui vì không  còn tham sân si. Gia đình Phật tử hiểu đạo có thể nghèo mà hạnh phúc, vì mọi  người biết thương yêu chia sẻ cho nhau, tình gia đình rất đầm ấm. Rõ ràng nếu  tâm linh sáng suốt chúng ta không sống tệ với nhau, chỉ khi tâm linh mờ tối u ám  con người mới làm khổ nhau. Như vậy đạo Phật đem lại cho con người một trí tuệ  sáng suốt, một nguồn yêu thương vô bờ.
 
 Đạo Phật không dừng lại ở chỗ đó mà còn tiến sâu hơn, giúp tất cả chúng sanh  thoát khỏi dòng trầm luân sanh tử. Câu hỏi thứ ba đức Phật muốn giải quyết, đó  chính là làm sao đưa mình và mọi người ra khỏi sanh tử, danh từ chuyên môn nhà  Phật gọi là “giải thoát sanh tử”. Các triết gia thường dùng từ “vĩnh hằng” tức  còn mãi, không đổi thay. Đi tìm một con đường đưa mọi người tới an vui hạnh phúc  vĩnh viễn, không còn sanh tử nữa, việc đó lớn hay nhỏ? Dễ tìm, dễ thấy không?
 
 Người học Phật ngày nay nhìn hơi cạn cợt, cứ nghĩ tu theo Phật để tâm mình yên  một chút, biết thương người một chút, cúng Phật mong đời sau được sung sướng hơn  đời này một chút. Chỉ lo chừng ấy thôi. Đó không phải là mục tiêu đức Thích-ca  nhắm tới. Mục tiêu của Ngài là làm sao đưa con người tới chỗ giải thoát sanh tử.
 
 Đức Phật ôm ấp trong lòng ba hoài nghi trên nên Ngài tìm đến các vị tu thiền  ngoại đạo ở Ấn Độ. Ban đầu, Ngài tu pháp Tứ thiền chứng được Tứ thiền. Tới đây  chưa giải quyết được các nghi vấn của mình, Ngài từ giã đi. Đến những vị thầy  khác dạy tu Tứ không, Ngài tu một thời gian chứng được Phi phi tưởng xứ, nhưng  cũng không giải quyết được ba vấn đề trên.
 
 Cuối cùng Ngài tới cội bồ-đề trải tòa ngồi, thệ rằng: “Ta ngồi dưới cội cây này  nếu không giác ngộ viên mãn, thà xương tan thịt nát quyết không rời khỏi chỗ  này.” Với quyết tâm đó Ngài thiền định tới đêm thứ bốn mươi chín từ canh một đến  canh hai chứng được Túc mạng minh, từ canh hai tới canh ba Ngài chứng được Thiên  nhãn minh, từ canh ba tới đầu canh năm Ngài chứng được Lậu tận minh. Thế là ba  vấn đề từng thắc mắc ôm ấp bấy lâu, tới đây bùng vỡ, Ngài hoàn toàn giác ngộ  viên mãn, giải thoát sanh tử.
 
 Phật nói trong hư không này có ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Dục  giới chúng ta đang ở đây đã là nhiều hành tinh lắm rồi. Sắc giới của những vị tu  thiền định được sanh lên, rồi tới Vô sắc giới của các vị tu Tứ không nữa. Ngày  nay khoa học tìm được bao nhiêu hành tinh trong bầu vũ trụ? Dục giới tìm còn  chưa hết, nói gì tới Sắc giới và Vô sắc giới, thì thôi chưa ngó tới.
 
 Những gì Phật thấy Phật nói đều do Ngài tu mà sáng ra, chớ không phải do học mà  được. Bởi chứng được vô số kiếp về trước, nên Ngài biết rõ chúng sanh đi trong  luân hồi sanh tử, không phải chết là hết. Có vô số kiếp về trước và vô số kiếp  về sau, cứ thế mà đi trong sanh tử, không phải một đời, hai đời. Đó là lý luân  hồi. Chúng ta không phải chết rồi hết mà sanh đây sanh kia tùy theo nghiệp mình  đã gây tạo.
 
 Do chứng Thiên nhãn minh, Ngài thấy con người khi nhắm mắt theo nghiệp dẫn vào  trong lục đạo. Phật nói: “Ta thấy chúng sanh đi trong lục đạo luân hồi do nghiệp  dẫn, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ qua người lại  rõ ràng.” Như vậy, nghiệp do Ngài thấy được, chớ không phải suy lý mà ra. Nghiệp  đó, chúng ta tạo rồi nó có sức mạnh dẫn ta đi nơi này, nơi kia trong vòng sanh  tử không cùng.
 
 Xưa kia đọc truyện Tàu, chúng ta thấy các ông tiên tu hành trên núi đắc đạo. Họ  nhìn người này người nọ thấy có hắc khí, nói không tốt phải thọ khổ, còn ai có  vầng sáng là người tốt, có phước, sẽ làm việc lớn v.v… đó là gì? Là hiện tướng  của nghiệp. Cho nên tượng Phật, tượng Bồ-tát thường có hào quang để nói lên ánh  sáng của Tự tâm. Tâm lành thì hiện tướng lành, tâm dữ thì hiện tướng dữ. Con mắt  thịt của chúng ta rất hạn chế, những gì có tướng mới thấy, không tướng thì không  thể thấy được, chớ không phải không có các hiện tượng trên.
 
 Tất cả chúng ta đều hiện tướng nghiệp, nhưng vì không biết nên gặp cảnh ta nghi  ngờ. Có người vừa nhìn mình thấy cảm mến, có người mới liếc qua mình thấy dễ sợ.  Tại sao? Đó là hiện tướng của nghiệp. Người hiện tướng hiền lành là do đời trước  biết tu, biết làm lành lánh dữ nên đời này ai thấy cũng thương mến. Người hiện  tướng hung dữ là do đời trước không tu, chuyên làm ác nên đời này nhìn thấy ai  cũng sợ, muốn lẩn tránh. Thế gian không biết cứ phân bì, nói sao người đó làm gì  cũng được, ai cũng thương cũng giúp đỡ, còn có người làm gì cũng thất bại, đi  tới đâu cũng bị từ chối. Vì vậy họ cho rằng xã hội bất công. Tại xã hội bất công  hay tại mình? Bản thân chúng ta chưa làm được việc tốt cho ai mà đòi người ta  mến thương, như vậy đâu có hợp lý. Nhưng ở đời luôn luôn đổ thừa cho xã hội, mà  không thấy lỗi nơi mình.
 
 Đức Phật khi chứng được Tam minh, Ngài có đủ Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát  bất cộng v.v... bao nhiêu thần thông diệu dụng đều có đủ. Rõ ràng Ngài không học  với ai, chỉ tâm lóng lặng phát ra ánh sáng, tự thấy tự biết. Cho nên trong kinh  nói “ta giác ngộ không có thầy”. Cái biết ấy sẵn có nơi mình, khi nào mọi vọng  tưởng lắng xuống hết thì nó hiện bày. Đó là chỗ thiết yếu mà đạo Phật muốn chỉ  dạy.
 
 Ngày nay người tu Phật dễ thỏa mãn, hài lòng với chút ít việc bên ngoài. Xây  dựng được cái chùa kha khá, có một số bổn đạo là đủ rồi, Phật sự vuông tròn rồi.  Không ngờ rằng như thế chỉ là việc tí hon, chẳng ra chi. Tu Phật không phải để  được những thứ nhỏ đó mà là phải giác ngộ. Tu mà không giác ngộ thì chưa xứng  đáng là đệ tử Phật. Vì Phật là bậc giác ngộ, chúng ta theo Phật là đi con đường  Phật đi. Nếu chúng ta không đi đúng đường hướng Phật dạy thì không thể gọi là  học Phật tu Phật.
 
 Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật theo lời nài nỉ của chư thiên, Ngài lập phương  tiện giáo hóa cho chúng sanh. Hai chữ phương tiện, chúng ta phải nắm cho thật  vững. Ai cũng nói lời Phật là chân lý, như pháp Tứ đế gọi là bốn chân lý. Chân  lý thì đâu phải phương tiện. Song trong kinh Kim Cang Phật nói: “Pháp của Phật  như chiếc bè đưa người qua sông.” Qua sông rồi thì chiếc bè phải bỏ. Có ai khờ  dại qua sông rồi còn vác chiếc bè theo đâu. Như vậy pháp của Phật là phương tiện  đưa người qua sông.
 
 Trong kinh Viên Giác Phật nói: “Giáo pháp của ta giống như ngón tay chỉ mặt  trăng.” Mặt trăng ở trên kia, người bạn đứng gần không thấy. Muốn bạn thấy, ta  lấy tay chỉ mặt trăng. Nương theo đầu ngón tay để thấy mặt trăng ở trên trời,  chớ không phải mặt trăng ở tại đầu ngón tay. Ngón tay chỉ cho người ta thấy mặt  trăng, chớ ngón tay không phải là mặt trăng. Khi thấy mặt trăng rồi, ngón tay  còn có nghĩa không? - Vô nghĩa. Như vậy rõ ràng pháp của Phật là phương tiện.  Chỗ khác nói “Phật tùy bệnh dữ dược”, tức Phật tùy bệnh mà cho thuốc. Pháp của  Phật là những phương thuốc, ai có bệnh gì Phật tùy theo bệnh đó mà cho thuốc.  Bệnh lành thì thuốc phải bỏ. Nếu bệnh đã lành mà uống thuốc hoài thì sẽ bệnh trở  lại hoặc biến thành bệnh khác.
 
 Pháp của Phật giảng trong kinh điển là phương tiện. Chúng ta ngày nay tu theo  Phật, không chịu tìm giác ngộ nơi mình mà cứ bám vào kinh điển. Sáng tụng kinh,  chiều tụng kinh rồi nói tôi tu đã đủ. Tụng kinh mà không biết ứng dụng lời Phật  dạy để chuyển nghiệp thì tụng có ích gì? Quí Phật tử ham tụng kinh là tốt, nhưng  phải biết tụng để làm gì. Chiếc bè rất cần cho chúng ta qua sông, nhưng nó không  phải là bờ. Nó chỉ đưa mình một chặng để ta lên tới bờ thôi.
 
 Lời Phật dạy là vàng ngọc, Phật tử tụng thuộc lòng kinh này, kinh kia mà không  giác ngộ thì chưa thể hài lòng được. Dễ thuộc nhất như Bát-nhã Tâm Kinh, Phật tử  nào cũng thuộc. Thuộc thì thuộc, mà có hành không? Chỉ một câu đầu thôi “Quán Tự  Tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không,  độ nhất thiết khổ ách”. Bồ-tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu Trí tuệ Bát-nhã  rồi, soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết khổ nạn. Quí vị đọc chừng bao  nhiêu lần, khổ nạn còn hay hết? Khổ nạn vẫn là khổ nạn, qua không được.
 
 Lời Phật là chân lý, là lẽ thật, tại sao quí vị tụng thuộc lòng bao nhiêu năm  rồi vẫn không hết khổ. Lỗi tại ai? Tại Phật dạy không đúng hay tại chúng ta làm  không đúng? Đó là điều chúng ta phải thấy cho rõ. Phật dạy không sai, Ngài dạy  chiếu kiến ngũ uẩn giai không, chớ không bảo đọc tụng ngũ uẩn. Đọc tụng ngũ uẩn  khác, chiếu kiến ngũ uẩn khác. Chiếu là soi, kiến là thấy. Soi thấy năm uẩn  không thật thì khổ ách nào cũng qua hết. Còn tụng mà thấy thật bon làm sao qua  được, nên khổ ách hoài.
 
 Ngài Thái Hư dùng ví dụ rất hay để nói về việc này. Như người muốn qua sông,  trước hết phải có thuyền. Xuống thuyền rồi phải bơi chèo mới tới bờ. Tới bờ rồi  mới lên bờ, đó là thành công việc qua sông. Nếu ai có thuyền, xuống thuyền rồi  mà ngồi ỳ hoài không chịu bơi chèo thì chừng nào qua tới bờ? Chắc ngàn năm. Cũng  thế, Bát-nhã chia ra ba thứ: một là Văn tự Bát-nhã, hai là Chiếu kiến Bát nhã,  ba là Thật tướng Bát-nhã. Văn tự Bát-nhã dụ như con thuyền. Quí Phật tử đang học  Văn tự Bát-nhã là đã xuống thuyền. Nhưng xuống mà ngồi đó thì cứ ngồi hoài, ngày  nào đêm nào cũng bao nhiêu đó, không đổi thay tí nào hết, thử hỏi chừng nào qua  sông. Trong kinh bảo “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, đâu phải ngồi đọc văn tự  mà được. Chiếu kiến là xem xét kỹ thân này không thật mới qua hết khổ ách.
 
 Thân này do tứ đại hòa hợp. Chất cứng là đất, ướt là nước, động là gió, ấm là  lửa. Đã từ bốn thứ hòa hợp lại thành, chúng ta thầm biết nó không thật nhưng  không dám nói. Vì sợ nói giả lỡ mai kia ai thử mình chịu không nổi. Duyên hợp  không thật nên nói Tánh không, duyên hợp giả có. Chữ tánh là sẵn. Ví dụ chiếc  đồng hồ trước khi anh thợ ráp các bộ phận lại thì nó là không. Không ráp lại  thành đồng hồ, chớ nếu đã có thì ráp lại không được. Do không nên ráp lại thành  đồng hồ. Bây giờ nếu anh thợ mở ra từng bộ phận thì đồng hồ cũng thành không.  Những gì do duyên hợp mà có thì trước đó đều là không, nên nói Tánh không, duyên  hợp tạm có, duyên tan trở về không.
 
 Cũng thế, thân chúng ta trước khi cha mẹ chưa sanh không có, đợi duyên hợp mới  có. Rồi tới ngày nào thở khì ra không hít lại thì nát thành không. Tất cả pháp  từ Tánh không duyên hợp giả có. Nếu chúng ta biết rõ như thế thì vượt qua khỏi  rất nhiều khổ ách. Thấy thân này duyên hợp giả có nên ai mắng nặng nhẹ gì mình  cũng chẳng nao núng. Thân này không thật huống nữa lời nói, thành ra mình cười  thôi. Chiếu kiến ngũ uẩn thấy rõ Sắc uẩn không thật thì qua biết bao nhiêu khổ  nạn.
 
 Như vậy, muốn qua khổ nạn phải chiếu kiến Bát-nhã, nhưng Phật tử chỉ thích chặng  đầu thôi. Chặng thứ hai không thực hành mà muốn đi tới kết quả ở chặng thứ ba.  Ngồi hoài trên thuyền không chịu bơi, đòi tới bờ bên kia, chuyện đó thật là ngớ  ngẩn. Chúng ta đọc kinh Phật phải biết quán chiếu đúng như thật mới được giác  ngộ, mới hết khổ. Còn không biết quán chiếu, đọc bao nhiêu cũng không hết khổ.  Đó là lẽ thật.
 
 Phật dạy chúng ta tiêu diệt ba thứ độc là tham, sân, si. Phật chê chúng độc hại  mà đệ tử Ngài cứ giữ hoài không chịu bỏ, như vậy có trung thành với Phật chưa?  Trước hết là trách người xuất gia. Đầu tròn, áo vuông, mặc áo nhuộm, ăn chay  trường, bước được một bước khá dài rồi, chỉ còn bỏ tham sân si nữa thôi thì  thánh thiện biết mấy. Đã đầu tròn, áo vuông, ăn chay mà không bỏ tham sân si thì  tiến nhiều ít? Chỉ có hình thức thôi, chớ sự thật không tiến bao nhiêu.
 
 Trong nhà Phật nói tham sân si là ba con rắn độc. Có lần Phật hỏi các thầy  Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, nếu có ba con rắn độc ở trong thất các ông, các ông  ngủ yên không?” Các thầy thưa: “Bạch Thế Tôn, chúng con ngủ không yên.” Phật  hỏi: “Các thầy làm sao ngủ yên?” Các thầy thưa: “Bạch Thế Tôn, muốn ngủ yên  chúng con phải đuổi ba con rắn độc ấy ra khỏi thất.” Giả sử còn một con ngủ cũng  không yên nữa. Như vậy, chư Tăng Ni ở chùa, muốn yên tốt thì phải đuổi hết ba  con rắn độc. Thế mà có người không chịu đuổi, còn muốn nuôi lớn nữa chứ! Thật là  đáng trách. Ở trong chùa từ Trụ trì trở xuống đều bỏ được tham sân si thì chùa  đó có thịnh không? Dĩ nhiên là thịnh rồi. Nhiều chùa than sao Phật tử đi chùa  kia nhiều mà chùa mình ít, rồi buồn trách Phật tử không công bằng. Nhưng biết  đâu, tại chùa mình rắn độc nhiều quá, người ta thấy hoảng sợ nên chạy hết.
 
 Tu giai đoạn đầu đã thấy được những lợi ích thiết thực. Nếu qua giai đoạn thứ  hai, tìm được cái chân thật vĩnh hằng nơi mình thì lợi ích vô kể, không sao so  sánh nổi. Trong kinh Phật dạy như người tu Tịnh độ niệm Phật từ một ngày, hai  ngày, ba ngày, tới bảy ngày nhất tâm bất loạn, khi nhắm mắt Phật Di-đà hiện ở  trước. Nhất tâm bất loạn là sao? Là chỉ còn một cái biết không dấy động. Tâm là  cái biết. Người tu thiền Phật dạy phải được định. Định là sao? Tâm lăng xăng  loạn tưởng lặng hết thì định. Có định mới đến Niết-bàn vô sanh. Chỗ cứu kính ấy  tu pháp môn nào cũng đi tới hết.
 
 Kinh Kim Cang Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư  tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.” Phàm cái gì có tướng đều giả dối. Nếu thấy  tướng biết rõ nó giả dối là thấy Phật. Nhưng đó là thấy Phật nào, ở đâu? Đạo  Phật không những chỉ dạy chúng ta trở thành một con người tốt, sau khi mất thân  này được sanh về cõi lành thôi, đạo Phật còn chỉ cho chúng ta thấy, con người có  khả năng đi tới giải thoát sanh tử, sống với cái vĩnh hằng của mình. Ngoài hai  thứ tạm bợ là thân tâm sanh diệt, ai cũng có cái chân thật mà chúng ta quên. Đó  chính là ông Phật của mình.
 
 Đa số chúng ta chỉ biết thân và tâm lăng xăng thôi, còn cái hằng hữu không vắng  thiếu lúc nào lại quên mất, nên Phật chê mình mê muội hay vô minh. Vì cái giả ta  cho là thật, cái thật lại bỏ mất. Bây giờ làm sao để thấy được cái thật? Chỗ này  tối quan trọng trong nhà Phật. Tôi xin trở lại ý ban đầu.
 
 Khi đức Phật thành đạo rồi, Ngài không muốn đi thuyết pháp mà lại muốn nhập  Niết-bàn. Chư thiên hỏi Ngài sao không đi thuyết pháp? Ngài trả lời: “Vì chỗ ta  thấy, nói chúng sanh không hiểu, cho nên ta muốn nhập Niết-bàn.” Sau đó theo lời  thỉnh cầu tha thiết của chư thiên, đức Phật đã dùng phương tiện giáo hóa chúng  sanh. Tất cả những bài pháp Ngài nói ra như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên… đều là  phương tiện. Chỉ đến khi ở hội Linh Sơn, chúng tụ họp đông đảo, Phật yên lặng  đưa cành hoa sen lên, rồi nhìn từng người. Đại chúng đều ngơ ngác không hiểu gì  hết. Tới Ca-diếp, Ngài nhìn Phật mỉm cười, Phật liền tuyên bố: “Ta có chánh pháp  nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao cho Ca-diếp.” Ngay  đó mới là lúc mãn nguyện của đức Phật, Ngài chỉ ra được cái lâu nay muốn chỉ mà  chưa chỉ được. Cả hội chúng, trong đó nhiều vị chứng A-la-hán rồi, cũng không  hiểu Phật muốn chỉ gì. Nhưng thật sự giây phút ấy mới thâm diệu làm sao!
 
 Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên hỏi A-nan: “Ông thấy không?” Ngài  A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, thấy.” Phật để tay xuống hỏi: “Ông thấy không?” Ngài  A-nan thưa: “Con không thấy.” Đức Phật liền quở: “Ông là người quên mình theo  vật.” Lỗi tại chỗ nào? Cái gì là mình mà quên? Cái gì là vật? Cánh tay đưa lên  để xuống là vật. Cái hay thấy cánh tay đưa lên để xuống là cái của mình. Đưa tay  lên thấy thì lý đáng nói thấy cái tay đưa lên. Tay để xuống lý đáng nói thấy cái  tay để xuống. Cái tay khi có khi không, còn cái thấy trước sau như một. Nếu  không có cái thấy, làm sao biết tay để xuống. Nhưng vì chúng ta quen, con mắt  chạy theo cảnh, lỗ tai chạy theo tiếng, cứ như vậy mà cho có cảnh, có tiếng là  có thấy, có nghe. Nếu không tiếng, không cảnh thì không thấy, không nghe. Như  vậy có phải chúng ta biết cái bên ngoài mà không biết cái thật của mình không?
 
 Chúng sanh có bệnh vừa thấy liền khởi phân biệt. Ví dụ thấy bình hoa thì khen  đẹp quá hoặc chê xấu quá. Thấy bình hoa liền thêm niệm phân biệt đẹp xấu nên  quên mất cái thấy ban đầu. Cái thấy ban đầu không hình tướng, không phân biệt,  thấy là thấy, nhưng chúng ta không dừng ở đó, mà nhảy qua cái thứ hai liền. Như  thấy người đi ngang thì thấy là thấy thôi. Đằng này vừa thấy đi ngang liền chê  xấu, khen đẹp. Cứ theo cái xấu đẹp mà quên cái hay thấy. Chặng đầu đó rất thật  mà chúng ta không chịu nhớ, chỉ nhớ chặng thứ hai thứ ba. Nhớ chặng thứ hai, thứ  ba thì khen chê theo sau, từ đó sanh phiền não. Đẹp thì dễ thương, xấu thì dễ  ghét. Nếu thấy người đi qua thấy là thấy, người đi lại cũng thấy là thấy, không  thêm đẹp xấu thì có thương ghét không? Không có thương ghét. Cả ngày thấy nghe  tất cả mà tâm không khởi niệm thương ghét là tu giỏi.
 
 Tu là phải thấy đúng như thật. Đức Phật muốn chỉ cái thật cho chúng ta, ai cũng  có. Cái thấy cái nghe, quí vị có thiếu không? Nếu thiếu chắc không tới hội  trường này được, đâu thấy đường đi, đâu nghe giảng được. Song khổ nỗi chúng ta  thấy nghe rồi sanh phân biệt, mà không nhớ cái luôn luôn hiện hữu bên mình. Cho  nên niệm Phật để nhất tâm, là dừng tâm phân biệt hơn thua, phải quấy, tốt xấu.  Thiền định để dẹp hết những tâm lăng xăng loạn động thì cái chân thật hiện ra.  Đó là Cực Lạc, là Niết-bàn không sanh không diệt, đâu còn khổ nữa.
 
 Sở dĩ trong nhà thiền nói như có cái gì bí mật, vì cái đó không giải thích được.  Vừa giải thích là suy nghĩ, mà suy nghĩ là trật rồi. Chỉ ngay đó nghe nhận thì  đúng, còn suy nghĩ thì trật tuốt. Đạo Phật chỉ chúng ta một cái vĩnh hằng ngay  nơi mình. Cái vĩnh hằng ấy hiện hữu trong tất cả mọi lúc mọi nơi. Nếu người nào  khéo sẽ dễ dàng nhận ra. Như khi ngồi chơi, trong đầu trống rỗng không nghĩ gì,  nghe gió thổi, chim kêu, thấy lá rụng.., lúc đó có mình hay không? Nếu không có  thì ai biết gió thổi, chim kêu, lá rụng. Biết gió thổi, chim kêu, lá rụng là  mình hiện tiền. Rõ ràng không có suy nghĩ, Tâm chân thật hiện tiền, chớ đâu phải  không ngơ.
 
 Ngài Thần Hội dùng ví dụ rất hay. Như nhìn vào gương chúng ta thấy bóng người,  bóng vật, lúc đó quên gương. Chừng nào không có bóng người bóng vật, ta thấy mặt  gương rõ ràng. Cũng vậy, Tâm thể chúng ta trùm hết, nhưng vì mình theo bóng nên  quên Tâm thể. Gương dụ cho Tâm thể chân thật, bóng dụ cho người cảnh không thật.  Khi chúng ta theo bóng thì quên gương, chừng nào bóng hết thì gương hiện đầy đủ.  Cũng vậy, tâm mình không còn một niệm lăng xăng, lúc đó cái chân thật bất sanh  bất diệt hiện tiền.
 
 Đạo Phật chẳng những dạy chúng ta tu để đời sau hưởng phước lành, đời này được  an vui hạnh phúc, đạo Phật còn dạy chúng ta tu để đi tới chỗ vượt ngoài sanh tử.  Cái đó hiện giờ chúng ta đang có. Tất cả quí vị có cái chân thật miên viễn mà  quên, cứ theo tâm sanh diệt, nghĩ tốt nghĩ xấu, nghĩ hơn nghĩ thua, tạo nghiệp  lành nghiệp dữ đi trong luân hồi sanh tử. Vì vậy Phật nói rất đáng thương. Phật  thương mình, còn mình lại không thương mình!
 
 Chúng ta nghiệm kỹ mới thấy con đường của Phật dạy vượt ngoài thường tình. Ngài  bảo chúng ta quay lại tìm nơi mình, tin chắc nơi mình có ông Phật thật, chớ  không tìm kiếm ở đâu, không lệ thuộc vào ai hết. Đó là quyền tự do tuyệt đối của  đạo Phật. Chúng ta có quyền làm Phật mà cũng có quyền làm chúng sanh. Tùy mình  thôi. Quí vị muốn được quyền làm Phật hay quyền làm chúng sanh? Ai cũng muốn làm  Phật nhưng hành động thì theo chúng sanh, khó ở chỗ đó.
 
 Như vậy, đối chiếu giữa Phật học với khoa học chúng ta rút ra được một kết luận  cụ thể. Khoa học cốt tạo ra phần vật chất để phục vụ cho con người có cuộc sống  đầy đủ tiện nghi. Song vật chất được rồi cũng mất, tốt rồi cũng xấu. Còn Phật  học chỉ thẳng cho chúng ta tìm ra con người chân thật muôn đời để vĩnh viễn  thoát ly sanh tử, chấm dứt khổ đau. Đạo Phật không phải chỉ dạy con người tu  hành hiền lành để đời sau hưởng phước, đó là việc nhỏ thôi. Mục đích lớn là phải  được giải thoát sanh tử. Đây chính là gốc của đạo Phật. Chúng ta tu để đi đến  giải thoát, giác ngộ rõ thân này không thật, tâm lăng xăng hư ảo, mình còn có  cái thật cần phải nhận ra nó, sống với nó. Như vậy mới thật là người tu Phật đến  nơi đến chốn.

 
 





































































 TVTL Từ Ấn
TVTL Từ Ấn 


