Tín Tâm Minh
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ Sáu, 17 Tháng mười 2008 10:08
- Viết bởi nguyen
LƯỢC TRUYỆN TAM TỔ TĂNG XÁN
(497 ? – 602)
------oOo-----
Về quê quán và gốc gác của Sư vốn không ai biết rõ ràng ở đâu. Chỉ biết rằng, lúc Sư đến gặp Nhị Tổ Huệ Khả là với hình thức cư sĩ, mắc bệnh phong hủi đến gặp Tổ cầu xin sám tội:
- Đệ tử mang bệnh ghẻ lỡ đầy mình xin Thầy từ bi sám tội cho.
Tổ Huệ Khả bảo:
- Ông đem tội ra đây, ta sẽ sám cho ông.
Sư đứng sững giây lâu, thưa:
- Đệ tử tìm tội không thể được.
Tổ Huệ Khả bảo:
- Ta đã sám tội cho ông rồi. Song ông nên nương tựa Phật Pháp Tăng.
Sư thưa:
- Nay đây đệ tử thấy Thầy thì đã biết được Tăng, còn chẳng biết thế nào là Phật và Pháp?
Tổ Huệ Khả bảo:
- Chính tâm ấy là Phật, tâm ấy là Pháp, Phật pháp không hai, ông có biết chăng?
Sư thưa:
- Nay đệ tử mới biết tánh tội không ở trong, ngoài, khoảng giữa; như tội, tâm cũng vậy, thật Phật Pháp không hai.
Tổ Huệ Khả nghe nói vui vẻ, cho cạo tóc xuất gia, bảo:
- Ông chính là vật báu của ta, nên đặt tên Tăng Xán.
Ngày 18 tháng 3 niên hiệu Thiên Bình thứ hai (536) nhà Bắc Tề, Sư được thọ giới cụ túc tại chùa Quang Phúc. Sư theo hầu hạ Tổ Huệ Khả hai năm, được Tổ truyền kệ và y bát rồi bảo phải đi ẩn tránh nơi xa vì sẽ có nạn. Sư đến ở ẩn nơi núi Hoàn Công tại Châu Thư.
Có thuyết nói rằng, khi Sư đến ở chùa Sơn Cốc thì bệnh tuy hết mà không mọc tóc đen trở lại, cho nên người ở Châu Thư gọi Sư là: Xích Đầu Xán (ông Xán đầu đỏ). Song chỗ thấy biết và đạo đức khác thường của Sư thực người khó lường biết được. Trước kia nơi Sư ở có rất nhiều rắn độc và thú dữ hay làm hại người, khi Sư đến ở thì liền dứt hết.
Đến đời Võ Đế nhà Hậu Châu ra lệnh hủy diệt Phật pháp (561), Sư tránh sang ở núi Tư Không huyện Thái Hồ. Lúc này Sư thường dời đổi chỗ ở không nhất định, do đó hơn mười năm không ai biết tin tức. Khi Sư ở núi Tư Không có một vị tăng người Ấn tên Tỳ Ni Đa Lưu Chi sang Trung Hoa cầu pháp; vị tăng ấy gặp Sư hết lòng kính mộ nguyện xin làm đệ tử. Sư truyền tâm ấn cho Lưu Chi và dạy qua phương Nam tiếp độ chúng sanh.
Khoảng niên hiệu Khai Hoàng thứ 12 đời Tuỳ (592) có một Sa di 14 tuổi hiệu Đạo Tín đến lễ Sư thưa:
- Mong Hòa thượng từ bi, xin cho con pháp môn giải thoát.
Sư bảo:
- Ai trói buộc ngươi?
Tín thưa:
- Không ai trói buộc.
Sư bảo:
- Vậy đâu cầu giải thoát chi nữa?
Đạo Tín ngay lời nói liền đại ngộ. Từ đây Đạo Tín theo hầu hạ Sư suốt chín năm.
Trong Thống Yếu nói: Đạo Tín ngay đó có tỉnh, lại hỏi tiếp:
- Thế nào là tâm Phật xưa?
Sư bảo:
- Ông nay đây là tâm gì?
Tín thưa:
- Con nay không tâm.
Sư bảo:
- Ông đã không tâm, chư Phật há có tâm ư?
Ngay đó Đạo Tín dứt hết nghi ngờ.
Sau Đạo Tín đến Châu Cát thọ giới, rồi trở về hầu hạ Sư càng thêm cần mẫn. Sư thường đem lý sâu kín gạn thử Đạo Tín, biết được cơ duyên của Đạo Tín đã chín muồi, bèn truyền y pháp cho Tín và kệ:
Hoa chủng tuy nhân địa,
Tùng địa chủng hoa sanh.
Nhược vô nhân hạ chủng,
Hoa địa tận vô sanh.
Dịch:
Giống hoa dù nhân đất,
Từ đất giống hoa sanh.
Nếu không người gieo giống,
Hoa, đất trọn không sanh.
Sư dạy tiếp:
- Trước kia Đại sư Huệ Khả trao pháp cho ta xong, Ngài đi qua Nghiệp đô hoằng hóa hơn ba mươi năm mới tịch. Nay ta đã có được ông, sao phải vướng mắc nơi đây làm gì?
Sư bèn đi đến núi La Phù thong dong hai năm, rồi trở về Châu Thư, ở lại chùa cũ Sơn Cốc. Hơn tháng, dân chúng nghe tin, cùng nhau kéo tới tấp nập, thiết lễ cúng dường lớn. Sư vì bốn chúng nói rộng về tâm yếu. Nói xong, Sư đứng ngay dưới gốc cây to tại pháp hội, chấp tay mà tịch.
Nhằm ngày rằm tháng mười năm Bính Dần, niên hiệu Đại Nghiệp thứ hai đời Tuỳ (602). Gặp lúc nhà Tùy vừa có loạn nên chưa kịp xây tháp. Đến đời Đường niên hiệu Thiên Bảo thứ Năm (746), Lý Thường ở Quận Triệu được đổi đến Châu Thư, ông mới cho bốc lên thiêu lấy xá lợi xây tháp. Sau đó Tể tướng Phòng Quản làm bia. Vua Minh Hoàng đời Đường truy phong là Thiền sư Giám Trí, tháp hiệu Tịch Giác.
Sư có trước tác bài “Tín Tâm Minh”, truyền rộng ở đời.
Sư nói pháp hơn ba mươi năm, im miệng chẳng bàn đến dòng họ, quê quán, thường nói với Ngài Đạo Tín rằng:
- Có người muốn hỏi, chớ nói chỗ ta đắc pháp.
Thiền sư Khế Tung nói:
- Bậc chí nhân cho dấu vết sự vật là cái lụy của đại đạo, mới quên đi tâm kia. Nay đây, tông môn chánh pháp còn muốn sót mất, huống nữa tên họ, quê hương, để ý làm gì ư?
| |
Chí đạo không khó, Rốt ráo cùng tột, |