THIỀN SƯ THIỆU LONG
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ ba, 01 Tháng ba 2011 13:36
Ở Hổ Khưu phủ Bình Giang
Sư quê ở Hàm Sơn, chín tuổi đã từ cha mẹ vào viện Phật Huệ, trải sáu năm được độ làm Tăng thọ giới cụ túc. Sau năm năm, Sư đến yết kiến Tín Công ở Trường Lô được chút ít mùi vị. Có người đem lời Viên Ngộ đến cho Sư nghe. Sư than: Tưởng đến me liền chảy nước miếng, tuy chưa được nếm vào miệng nuốt vào bao tử, đã làm cho người thích thú, chỉ hận chưa được nghe tiếng ho hen thôi. Sư bèn đến Bảo Phong nương với Trạm Đường, rồi làm khách thưa hỏi Thiền sư Tử Tâm ở Hoàng Long, sau mới đến Viên Ngộ.
*
Một hôm, Sư vào thất, Viên Ngộ hỏi: - “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”, Ngộ đưa nắm tay lên hỏi: - Thấy chăng?
Sư thưa: - Thấy.
Viên Ngộ bảo: - Trên đầu lại để đầu.
Sư nghe bỗng nhiên khế chứng.
Viên Ngộ quở: - Thấy cái gì?
Sư thưa: - Tre dầy chẳng ngại nước chảy qua.
Viên Ngộ thừa nhận, sai làm Tri tạng. Có người hỏi Viên Ngộ: - Tạng chủ Long mềm mại dường ấy đâu hay vì người ?
Viên Ngộ đáp: - Con cọp ngủ.
Sau Sư trở về quê hương trụ tại chùa Khai Thánh. Khoảng niên hiệu Kiến Viêm (1127-1131) có loạn, Sư bèn cất am dưới chót Đồng Phong. Quận thú Lý Công Quang mời Sư trụ chùa Chương Giáo. Sau cùng, Sư đến Hổ Khưu, nơi đây chúng rất thịnh hành, đạo được hưng hóa.
*
Sư dạy chúng: Mở toang cửa nẻo muôn dặm chẳng dính mảnh mây, mặt trời sáng lên không, bốn phương gió mát đầy tòa, mặt hồ ánh sáng thênh thang, đồng nội sắc trong lặng sáng, vạn tượng sum la đồng bày hải ấn. Nếu được nơi nơi diệu dụng vật vật chân cơ, tâm cảnh nhất như mảy trần chẳng lập, chính thế ấy là muôn cơ thôi nghỉ, ngàn thánh chẳng mang, ngồi đoạn đảnh Tỳ-lô, chẳng trình Thích-ca Văn, xem thường Thanh văn, ngạo nghễ Bồ-tát, Đức Sơn Lâm Tế trông thấy mắt trợn miệng lẩm bẩm, có gậy có hét một điểm cũng dùng chẵng được. Hãy nói, khi chợt gặp gười trong kia lại làm sao thoại hội? Nghiêng che gặp nhau vốn cố cựu, ngại gì đến uống trà Triệu Châu.
*
Sư dạy: Trước mắt không pháp, vạn tượng rậm rạp, ý tại trước mắt, chợt hiện khó biện, chẳng phải pháp trước mắt, chạm đến gặp y chẳng phải chỗ mắt tai đến, chẳng lìa thấy nghe hiểu biết. Tuy nhiên như thế, cũng phải là kia nhằm trên cây chốt cửa mới được. Vì thế nói, lưới bủa chẳng dừng trụ, kêu gọi chẳng xoay đầu, Phật Tổ chẳng an bày, đến nay không nơi chốn. Như thế thì chẳng nhọc liễm niệm lầu các cửa mở, tấc bước chẳng dời trăm thành đều đến. Sư cầm gậy vạch một lằn nói: “Rắn chết trên đường chớ đập chết, giỏ tre không đáy bỏ mang về.”
*
Sư dạy: Sáng chẳng soi cảnh cảnh cũng chẳng còn, sáng cảnh đều mất lại là vật gì? Trên đầu trăm cỏ dẹp hết binh đao thì gác lại, chợt như voi lớn Gia Châu cỡi ngược ngựa sắt Thiểm Phủ, nắm núi Tu-di một vả nát nghiến, trong nước Tân La cỡi ngựa, Nam Thiệm Bộ Châu nói thiền, lại làm sao? “Trên núi Ngũ Đài cơm mây nấu, trước thềm điện Phật chó đái trời, trên đầu cột phướn nung chùy quả, ba con khỉ vượn đêm vãi tiền.”
*
Sư dạy: Phàm có bày đỡ trọn rơi thời nay, chẳng bày chẳng đỡ rơi hầm rớt hố, dù cho gió thổi chẳng vào, nước rưới chẳng dính, kiểm điểm về sau tự cứu chẳng xong. Há chẳng thấy, dù giống bóng trăng đầm lạnh, tiếng chuông đêm vắng, chạm sóng to mà không tan, tùy dóng đánh vẫn không thiếu, còn là việc đầu bờ sanh tử. Sư cầm cây gậy vạch một vạch nói: Chặt sắn bìm nhiều năm của cổ nhơn, đá điểm đầu bất chợt vỗ tay cười. Hãy nói cười cái gì? Sau ót thấy má chớ cùng qua lại.
*
Khoảng niên hiệu Thiệu Hưng, Sư có chút bệnh rồi tịch. Tháp toàn thân ở góc Tây Nam chùa.