Uyển Lăng Lục (Tiếp theo...)
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ Sáu, 01 Tháng Hai 2008 04:29
- Viết bởi nguyen
CHÁNH VĂN
Hỏi: Thế nào là xuất tam giới?
Đáp: Thiệc ác đều chớ suy nghĩ, ngay chỗ ấy liền xuất tam giới. Như Lai ra đời vì phá ba cõi, nếu không tất cả tâm, tam giới cũng chẳng có. Như một hạt bụi đập làm trăm phần, chín mươi chín phần là không, một phần là có, thì pháp Đại thừa không thể xuất hiện, trăm phần đều không thì pháp Đại thừa mới hay xuất hiện.
GIẢNG:
Xuất tam giới là ra khỏi ba giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Thiệc ác đều chớ suy nghĩ, ngay chỗ ấy liền xuất tam giới. Câu này gọn quá mà cũng dễ quá, phải không? Ngài Hoàng Bá nói giống như Lục Tổ, thiện ác đều chớ suy nghĩ, ngay đó liền xuất tam giới, ngay đó là bản lai diện mục. Bản lai diện mục là chỉ cho cái chân thật của chính mình, cái chân thật đó không bị luân hồi trong tam giới lục đạo, cho nên nói xuất tam giới.
Chúng ta ngồi thiền một giờ, nửa giờ không nghĩ thiện, không nghĩ ác v.v… ngay đó liền xuất tam giới. Xuất tam giới là gì? Là giải thoát sanh tử. Người tu nào không mơ ước được giải thoát sanh tử. Một giờ ngồi thiền không có niệm thiện, niệm ác là một giờ giải thoát sanh tử. Niệm thiện thì sanh đường lành, niệm ác thì đọa đường dữ, nếu không có niệm thiện, niệm ác thì sanh ở đâu? Thì ra khỏi tam giới. Chỉ một câu hết sức đơn giản, mà dạy chúng ta tu rất tuyệt vời, để được giải thoát sanh tử.
Như Lai ra đời vì phá ba cõi, nếu không tất cả tâm, tam giới cũng chẳng có. Đức Phật ra đời là vì chỉ cho chúng sanh tu giải thoát sanh tử. Giải thoát sanh tử là không còn lăn lộn trong tam giới nữa, cũng gọi là phá ba cõi. Người tu ra khỏi tam giới tức là giải thoát sanh tử, đó là phá tam giới. Phật dạy chúng ta phá ba cõi tức là tu để ra khỏi tam giới.
Nếu không tất cả tâm, tam giới cũng chẳng có. Tất cả tâm là niệm thiện, niệm ác, niệm phải, niệm quấy… lặng hết thì tam giới cũng không còn, không dính dáng gì với mình. Nhiều người nghĩ cõi này khổ quá, làm người nhọc nhằn phiền não quá, muốn được sanh cõi trời sướng hơn. Như vậy là còn muốn sanh cõi lành. Lên cõi trời sống hoài cả muôn ngàn triệu năm, không biết như vậy vui hay buồn? Người ta cứ ngỡ sống dai là vui, nhưng thử hỏi quí vị lớn tuổi xem họ có vui không? Nhiều khi sống lâu một mình, bà con thân thuộc đi hết trơn, buồn chết, có gì vui đâu.
Sống vừa vừa với nhau, có bạn có bè, người này đi còn người khác. Nếu bạn bè đi hết, mình sống với lớp nhỏ nó không thông cảm, nói chuyện với ai đây, có buồn không? Vậy mà ai cũng đòi sống dai, sống để mà buồn sống làm chi. Hoặc lên các cõi trời không làm gì hết, muốn gì được nấy cũng sẽ buồn. Con người sống có sinh hoạt, trồng cây hái trái mới vui, còn muốn gì được nấy mới đầu thấy thích, nhưng sau đó hết thích, riết rồi không biết sống để làm gì nữa!
Nhà Phật khuyên chúng ta không nên ở trong tam giới, dù cho các cõi trời sắc giới, vô sắc giới rất sung gướng, nhưng đức Phật thấy cũng ràng buộc thôi. Chỉ ra khỏi tam giới mới tự tại thảnh thơi. Vì vậy Đức Phật dạy chúng ta tu phá ba cõi. Nếu không tất cả niệm khởi, không tất cả suy nghĩ thì tam giới cũng vô nghĩa, không có đối với chúng ta. Như vậy ra khỏi tam giới cần gì thần thông? Dù có thần thông mà nghĩ lung tung cũng không ra khỏi tam giới nổi. Bây giờ không cần thần thông, chỉ không tất cả niệm liền ra khỏi tam giới. Vì niệm khởi là tạo nghiệp lành dữ, nếu không niệm khởi còn gì tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì cái gì dẫn đi trong tam giới? Cho nên chỉ cần không tất cả niệm là ra khỏi tam giới, giải thoát sanh tử.
Chúng ta có đủ thẩm quyền quyết định, đi trong tam giới hoặc đường xấu, hoặc đường tốt, hoặc ra khỏi tam giới. Quyền của mình hết. Nếu gặp cảnh khổ mình kêu than với ai? Quyền của mình chọn mà than cái gì? Nếu sanh cõi lành cũng là quyền của mình, ra khỏi tam giới cũng là quyền của mình. Đức Phật bảo chúng ta có cái quyền tuyệt đối ấy, chẳng những quyền ở trong thế gian, mà còn quyền ra khỏi thế gian nữa. Đã trọn quyền, tại sao chúng ta không chịu chọn lựa đường đi, lại than khổ quá phiền não quá.
Nếu nhớ lại đôi khi chúng ta cũng cảm thấy hổ thẹn, Phật dạy không tất cả niệm thì ra khỏi tam giới, mà mỗi đêm chúng ta thắp hương cầu Phật độ con giải thoát sanh tử. Ra khỏi sanh tử là quyền của mình, chúng ta quyết định can đảm để dẹp bỏ những vọng tưởng lăng xăng. Những cái đó hết thì nghiệp cũng hết là ra khỏi sanh tử, đừng cầu cứu ai hết. Chúng ta có quyền thì ráng mạnh mẽ buông hết tất cả vọng tưởng để ra khỏi sanh tử, chớ Phật không làm thế chúng ta được. Hiểu rồi mới thấy người tu Phật là người can đảm, tự quyết định lấy thân phận của mình trong hiện tại và mai sau, chớ không trông cậy vào ai.
Như một hạt bụi đập làm trăm phần, chín mươi chín phần là không, một phần là có, thì pháp Đại thừa không thể xuất hiện, trăm phần đều không thì pháp Đại thừa mới hay xuất hiện. Ví dụ như một hạt bụi đập thành trăm phần, chín mươi chín phần nói không, chỉ còn phần tí ti nói có thì pháp Đại thừa cũng không có mặt trên thế gian. Chừng nào một trăm phần trăm các hạt đó đều không hết thì pháp Đại thừa mới có mặt ở thế gian này. Nghĩa là sao? Tất cả pháp thế gian từ lớn như núi sông rừng núi v.v… nhỏ như hạt bụi tí ti chúng ta đều thấy là duyên hợp, hư huyễn không có tự tánh, cái lớn không, cái bé cũng không, thấy tột cùng như vậy thì pháp Đại thừa xuất hiện. Nếu thấy cái lớn duyên hợp, còn những hạt nguyên tử nhỏ tí ti không phải duyên hợp, pháp Đại thừa cũng chưa xuất hiện.
Khoa học ngày nay có kính hiển vi phân tích những nguyên tử thì thấy còn chia chẻ được nữa. Nếu kính tinh vi hơn nữa thì sẽ chia chẻ hoài, chia chẻ hoài. Còn có một chút hình tướng là còn chia chẻ, như vậy khoa học ngày nay đã chứng minh được điều này. Tinh thần Phật học nhất là tinh thần Đại thừa thấy các pháp duyên hợp như huyễn, những gì duyên hợp mắt thấy được đều không có thực thể. Có hình tướng là không có thực thể, do duyên hợp hư giả, tánh nó là không. Thấy tất cả các pháp từ lớn tới bé đều duyên hợp, tánh không, đó là tinh thần Đại thừa.
Nếu tất cả pháp đều duyên hợp tánh không thì tâm chúng ta dính mắc cái gì? Thấy người biết duyên hợp tánh không. Thấy nhà biết duyên hợp tánh không, thấy tất cả sự vật đều biết duyên hợp tánh không thì có gì đâu để dính mắc. Không dính mắc là xuất tam giới. Tất cả pháp thế gian phá sạch rồi thì cái xuất thế hiện tiền, muốn như thế phải dùng kiếm Bát-nhã mới được.
Kinh Kim Cang phá sạch để đưa chúng ta tới chỗ cuối cùng ấy. Ngày xưa tôi lấy làm lạ tại sao chư Tổ đã nói giáo ngoại biệt truyền mà Lục Tổ lại giảng kinh Kim Cang? Sau này càng tu tôi càng thấm, mới thấy rõ kinh Kim Cang chỉ dạy chúng ta phá hết những dính kẹt, chỉ thẳng tâm chân thật như Lục Tổ vậy. Nếu không phá chấp thì không bao giờ chúng ta thấy được chỗ chân thật. Như vậy pháp Đại thừa xuất hiện khi nào ta thấy tất cả pháp không thật, còn có một pháp là chưa phải thật, chưa phải Đại thừa.
CHÁNH VĂN
Sư thượng đường nói:
Tức tâm là Phật, trên đến chư Phật dưới đến các loài bò bay máy cựa đều có Phật tánh, đồng một tâm thể.
GIẢNG:
Tức tâm là Phật, trên đến chư Phật dưới đến các loài bò bay máy cựa đều có Phật tánh, đồng một tâm thể. Ai có tâm là người đó có Phật. Tâm là cái biết, nên ai có cái biết người đó có Phật, lo gì không thành Phật. Chỉ sợ người nhiều tâm quá không thành Phật thôi.
CHÁNH VĂN
Sở dĩ Tổ sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang chỉ truyền một tâm pháp, chỉ thẳng tất cả chúng sanh xưa nay là Phật, chẳng nhờ tu hành.
GIẢNG:
Xưa nay là Phật, chẳng nhờ tu hành. Xưa nay là Phật có thể hiểu được, vì sao lại chẳng nhờ tu hành? Vì tu mà được, mà thành thì Phật đó sanh diệt. Tu là hành động sanh diệt, đem nhân sanh diệt để cầu quả không sanh diệt thì không được. Cho nên chúng ta tu không phải để thành Phật, mà tu để sạch vọng tưởng. Như kiến bị bụi đóng dơ, người ta thường nói lau kiến cho sạch. Nhưng sự thực kiến không dơ, tại bụi đóng mới thấy dơ. Bây giờ lau là lau bụi, chớ không phải lau kiến. Lau hết bụi kiến sáng lên thì nói kiến sáng, nhưng thật ra không phải lau bụi kiến mới sáng, mà nó sáng sẵn, khi bị bụi bám thấy mờ, đến lúc bụi sạch nó hiện lại cái sáng vốn có của nó. Cho nên nói lau kiến là không đúng, phải nói lau hết bụi, kiến hiện ra ánh sáng.
Việc tu cũng vậy. Tu là dẹp phiền não, dẹp vọng tưởng, không phải tu để thành Phật, vì Phật đã sẵn rồi. Khi nào dẹp hết phiền não vọng tưởng thì ông Phật hiện ra, không phải do tu mới có Phật. Như người đúc tượng, đắp từng miếng rồi ráp lại thành Phật, đó là làm thành. Đằng này tu là dẹp phiền não, dẹp vọng tưởng rồi ánh sáng sẵn của mình hiện ra, không phải làm thành ông Phật mới. Cho nên nói “chẳng nhờ tu hành”. Phật do tu hành được là Phật sanh diệt, cũng như bụi dính mình chùi, có bụi không bụi, chớ đâu phải kiến sáng và tối. Tối là tại bụi che, sáng là tại bụi hết, không phải kiến hồi chưa lau tối, bây giờ lau rồi sáng.
Tánh giác sẵn có của chúng ta cũng vậy. Nó có sẵn nhưng vì vọng tình che phủ, không một phút giây lắng lặng, nên bây giờ chúng ta ráng ra công dẹp bỏ nó, nó lóng lặng lại thì tánh giác hiện ra. Sự tu hành thấy như hết sức khó, nhưng ngẫm lại thì hết sức dễ. Sao dễ, sao khó? Bởi vì chúng ta quen thói nghĩ suy rồi, hết chuyện này tới chuyện kia. Ngồi lại thì thôi là đủ thứ chuyện trên đời, không rảnh phút giây nào nên không nhận ra cái thật của mình. Bây giờ từ chối không tiếp duyên nữa, chuyện từ chối dễ ợt có gì đâu. Không tiếp riết họ không tới nữa, tự nhiên mình thảnh thơi. Ông chủ nhà thảnh thơi được hiện tiền dễ hay khó? Phải chi cắt tay chặt chân thì khó, chỉ từ chối không tiếp khách thôi, vậy mà không chịu từ chối, lại còn thương khách nữa, khách chưa tới đã rủ tới rồi. Vì vậy chúng ta khổ.
Tu là gì? Là từ chối không tiếp khách, vừa dấy niệm lên liền tự nhắc “vọng, không theo” tức là không tiếp. Cứ bao nhiên đó làm hoài, chuyện nhẹ nhàng thảnh thơi quá, tại sao làm không được. Phải chi bắt quí vị lạy một đêm mấy ngàn lạy hoặc tụng mấy quyển kinh thì nói nhọc, đằng này chỉ từ chối vọng tưởng thôi. Ai tới không chơi, không tiếp là xong. Không tiếp hoài tức nhiên mình không có khách. Tại vì người ta tới mình tiếp nên có khách. Cả ngày bao nhiêu vọng tưởng phiền não tới, mình không theo thì khỏe khoắn vô cùng. Ngược lại chạy đuổi theo vọng tưởng thì khổ. Như đang ngồi nhớ hôm kia người đó nói một câu dễ ghét quá, ôn lại rồi suy nghĩ phải gặp người ấy đáp câu nào cho xứng đáng hơn, mạnh hơn, đáng tức hơn, cho họ khổ bằng mười lần mình mới được. Suy nghĩ vậy hết bao nhiêu giờ? Tâm trạng buồn bực hay vui tươi? Bao nhiêu đó đủ thấy không tu thì khổ. Tu thật ra rất dễ, nhưng người thấy khó là vì khách thân quá không nở từ chối, vì vậy cứ bị khách dẫn đi hoài.
CHÁNH VĂN
Chỉ như hiện nay biết nhận tâm mình, thấy bản tánh mình, chớ cầu cái gì khác. Thế nào biết tâm mình? Chính hiện nay nói năng đó tức là tâm ông.
GIẢNG:
Câu này đúng là chỗ Mã Tổ đáp ngài Huệ Hải. Hỏi: Thế nào là kho báu nhà mình? Đáp: Cái ông biết hỏi ta đó. Cái biết nói biết hỏi là gì? Nếu không có tánh biết làm sao biết nói, biết nghe. Biết nói, biết nghe không phải lỗi mà lỗi tại khi nói khi nghe mình suy gẫm, luận bàn, khen chê phải quấy, tốt xấu… đó mới là lỗi.