Uyển Lăng Lục (tiếp theo...) - cập nhật 05/03/2008
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ tư, 05 Tháng ba 2008 05:37
- Viết bởi nguyen
CHÁNH VĂN
Ngày thường chỉ học Tam muội ở ngoài miệng, nói Thiền nói Đạo, nạt Phật trách Tổ, đến chỗ này rồi hoàn toàn dùng không được. Ngày thường chỉ nhằm lừa người, đâu biết đến nay là tự dối mình. Trong địa ngục A Tỳ quyết định không thể thả ông.
GIẢNG
Những kẻ cứ nói bằng miệng mà không chịu tu tới nơi, sau này mới thấy khổ.
CHÁNH VĂN
Nay sắp chìm trong thời mạt pháp, cốt phải nhờ sức mạnh của mình. Chư huynh đệ! Cố gắng gánh vác huệ mạng Phật tiếp nối chớ để đoạn dứt. Thời nay vừa có một người, nửa người đi hành khước, cốt đi để xem sơn ngoạn cảnh, không biết tháng ngày đâu có chờ ta, một hơi thở ra không trở lại đã qua đời khác, chưa biết cái gì là đầu mặt. Than ôi! Khuyên các huynh đệ khi thân thể còn cường tráng phải nhận được cái chỗ thấu hiểu của mình, không bị người ta lừa là một phần việc lớn. Cái then chốt này rất là dễ dàng, tại tự ông không chịu nhận thôi.
GIẢNG
Việc tự tham cứu tu hành thật ra rất dễ, tự mình không chịu nhận thôi, chớ không phải khó. Đây là lời khuyên nhắc của ngài khi mạng căn sắp kết thúc.
CHÁNH VĂN
Người có chí liều chết thực tập công phu, chỉ ngoại đạo khó hiểu rõ, khó đạt được. Đâu thể dạy ông biết được trên cây tự sanh bắp trầm. Ông phải tự khéo chuyển biến mới được.
GIẢNG
Người đi tìm trầm, đâu có ai chỉ cây A, cây B có bắp trầm. Phải tới nơi khéo tìm, khéo nhận ra mới được.
CHÁNH VĂN
Nếu là bậc trượng phu khán công án, như có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tánh hay không?”, Châu đáp: “”Không”. Kia đi rồi, trong mười hai giờ khán một chữ “Không”. Ngày tham, đêm tham, đi đứng ngồi nằm, chỗ mặc y ăn cơm, chỗ đi tiểu đi đại, tâm tâm xem nhau, chăm bẳm tỉnh sáng, chỉ giữ một chữ “Không”, lâu ngày chày tháng đập thành một khối, bỗng nhiên tâm hoa tự sanh, ngộ được máy mầu của Phật Tổ, bèn không bị đầu lưỡi lão Hoà thượng trong thiên hạ lừa, hội rồi mới mở đại khẩu.
GIẢNG
Người khán công án phải chăm chăm như vậy đó, khả dĩ có chút kết quả tương ưng, không bị kẹt trên ngữ cú của các bậc tông sư.
CHÁNH VĂN
Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang không gió nổi sóng. Thế Tôn giơ cành hoa cả hội đều ngơ ngác. Đến được chỗ ấy nói gì lão Diêm La, đến ngàn thánh còn không bì được ông. Không tin nói, hẳn có nhóm kỳ đặc rất tột như thế, việc chỉ sợ người có tâm.
GIẢNG
Ngài nhắc lại Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang không gió nổi sóng. Nghĩa là thiền tông Trung Hoa bấy giờ chưa phát triển, ngài qua làm cho ngọn sóng thiền dấy khởi, nên nói dậy sóng ầm ầm. Thế Tôn giơ cành hoa cả hội đều ngơ ngác. Đến được chỗ ấy nói gì lão Diêm La, đến ngàn thánh còn không bì được ông, đến đó rồi Diêm La cũng không làm gì được, ngàn thánh cũng không bì nổi. Tại sao? Như Thanh văn, Duyên giác hay Bồ-tát từ sơ địa tới thập địa v.v… cũng chưa sống trọn vẹn với bản tâm thanh tịnh. Nếu người nào tới được chỗ đó thì đâu còn gì ngăn ngại nữa nên nói ngàn thánh không bì nổi.
Không tin nói, hẳn có nhóm kỳ đặc rất tột như thế, việc chỉ sợ người có tâm, không tin có một nhóm kỳ đặc như vậy là tại vì có tâm, nếu vô tâm thì ai cũng làm được việc kỳ đặc ấy hết. Cho nên ngài làm bài tụng:
CHÁNH VĂN
Tụng:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường,
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
GIẢNG
Không ai bỗng dưng được thành tựu cả mà phải có công phu. Công phu đó không phải để thành Phật mà để dẹp trần lao phiền não. Trần lao phiền não hết, Phật đạo tự hiện, không phải do tu mà thành Phật. Đó là lẽ thực