BIỂU TƯỢNG HOA SEN TRONG ĐẠO PHẬT
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ tư, 28 Tháng tư 2010 13:55
Trong buổi sinh hoạt này chúng tôi sẽ nói về biểu tượng hoa sen trong Phật giáo. Đây là hình ảnh không những thường được nhắc đến trong đạo Phật mà luôn được dân tộc Việt Nam ca ngợi với một đức tính cao đẹp. Nói tới hoa sen là nói đến sự tinh khiết giữa chốn bùn lầy. Cho nên hoa sen trong Phật giáo tượng trưng cho sự vươn lên, giác ngộ giải thoát ngay tại cõi đời ô trược.
Như tất cả chúng ta đều biết hoa sen mọc lên từ bùn lầy, từ rác rưởi nhơ nhớp. Hoa sen vượt khỏi bùn, nhú lên mặt nước, vươn mình lên cao, để cuối cùng tỏa ngát hương thơm. Những giai đoạn này rất gần gũi với quá trình tu hành của huynh đệ chúng ta.
Nếu không có bùn lầy, không có những chất bẩn nuôi dưỡng thì hoa sen không sống được. Loài hoa này không thể trồng trên đất khô cằn, cũng không thể trồng trên đất sạch sẽ, mà nó được nẩy mầm ra hoa từ chỗ bùn lầy nước đọng. Một khi nụ đã tròn hoa đã nở thì mùi hương không gì sánh nổi. Đó là điểm đặc biệt của hoa sen và chính vì thế nó được chọn làm biểu tượng cho đời sống của những người xuất gia tu đạo.
Cũng vậy, chúng ta không thể rời cuộc sống này để tìm đạo lý giác ngộ giải thoát. Ngay nơi đời sống ồn ào nhơ nhiễm, nếu chúng ta biết tu, biết gạn lọc để vươn lên thì ta sẽ thoát khỏi mọi đau khổ uế trược. Từ chỗ nhơ nhiễm, chúng ta phát huy được đặc tính cao khiết quý báu nhất của mình, ta sẽ sống an lạc ngay tại chốn ô trược. Được vậy, còøn gì quý bằng!
Đôi khi ta nghĩ rằng phải có những nhân tố, những điều kiện đặc biệt ta tu mới thành đạo, mới được giác ngộ giải thoát. Đâu ngờ rằng tất cả mọi người đều có thể thực hiện trọn vẹn tinh thần giác ngộ giải thoát ngay đây, không đợi lúc nào hay hoàn cảnh nào khác. Đó là tinh thần tích cực của người tu Phật. Giống như hoa sen từ bùn vọt lên và nở ngát hương.
Chúng ta đều biết mọi vật trên thế gian này luôn đổi thay nhanh chóng, không có sự vật nào tồn tại mãi mãi. Không ai có thể chận đứng luật chi phối của vô thường. Tuy nhiên đức Phật dạy trong cái sanh diệt ấy, có một cái luôn an ổn không dao động, không thay đổi, không sanh diệt, đó là tinh túy sẵn có nơi mỗi chúng sanh. Ta tu thiền cốt để phát huy cái tinh túy ấy.
Sự tu tập của mình là làm sao nhận và sống được với cái tinh túy sẵn có ấy. Đời này ta không than van, không trốn chạy, không sợ sệt đối với bất cứ một hiện tượng nào. Bởi vì tất cả mọi thứ đều đổi thay nhanh chóng, không có hiện tượng nào tồn tại lâu dài được. Nói một cách dễ hiểu, tất cả sự vật đều giả tạm, không thật. Nhưng nếu chỉ biết chừng đó thôi, sự tu sẽ không thể tiến lên được. Cho nên nhiều người đã hiểu lầm đạo Phật bi quan, vì thấy tất cả đều thay đổi, không thật, không có gì tồn tại để mình nắm bắt, gầy dựng. Trái lại do nhận biết rõ như vậy, người tu Phật càng phấn đấu nhiều hơn, sao cho trong khoảng thời gian ngắn, ta có thể nhận ra chất tinh túy quý báu của mình, để sống tự tại giữa cảnh nhơ nhiễm khổ đau của cuộc đời.
Vì vậy người tu Phật là vượt cả hai trường phái bi quan buông xuôi hoặc lạc quan thụ hưởng. Người tu Phật không bao giờ bi quan trước những sự đổi thay, chợt còn chợt mất của thân này; cũng không nghĩ đến sự thụ hưởng một cách mù quáng cho cá nhân mình. Người tu biết nuôi dưỡng phát huy trí tuệ, làm chủ được mình, không bị vẩn đục bởi những sự kiện chung quanh. Điều này rất khó. Chư Phật thị hiện ra nơi đời cũng chỉ một việc này, nói thẳng cho chúng ta biết “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Tùy theo hoàn cảnh, điều kiện và đối tượng, đức Phật chỉ ra như vậy. Chúng ta đủ duyên hiểu và nhận được tánh thật của mình thì chấm dứt mọi đau khổ. Những quan niệm bi quan hay lạc quan không còn nữa, bởi khi ấy ta đã giải thoát, không còn vướng bên này kẹt bên kia.
Thân này có giới hạn, mọi thứ chung quanh đều đổi thay, chúng ta phấn đấu khắc phục những khiếm khuyết của mình để thành tựu mục đích tối thượng là nhận ra chính mình. Muốn thế mỗi hành giả phải thường độc hành thường độc bộ, nghĩa là đi một mình, không ỷ lại hay trông chờ vào ai. Cho nên chúng ta cần nắm thật vững điều này để tăng tiến công phu trong từng giai đoạn. Có nỗ lực, có tăng tiến thì công phu mới thành tựu. Tánh giác bất sanh bất diệt hiện tiền rồi thì không gì có thể lay động được hành giả nữa. Đó là người đáng quý trọng nhất giữa cuộc đời này.
Trên đường tu hành chúng ta nên gần gũi những con người này, không nên lẩn quẩn loanh quanh với các thú vui giả tạm của thế gian. Không nên để thì giờ vào các việc ăn uống ngủ nghỉ thường tình. Có nhiều khi chỉ vì một chút khoái khẩu mà chúng ta để chết hết bao nhiêu thì giờ quý báu. Cho nên ngày xưa đức Thế Tôn không có việc nhúm lửa nấu ăn. Các ngài khất thực, trước là gieo duyên với chúng sanh, sau dồn thời gian vào việc nỗ lực hành thiền.
Nghiệm lại cả đời chúng ta lo cho cái ăn cái mặc, lo trăm ngàn thứ cũng chỉ vì tấm thân tứ đại hư ảo này, làm sao yên tỉnh tu hành được. Luôn luôn lúc nào cũng tính toán sắp xếp việc trăm năm, trong khi đó không biết mình sống chết lúc nào. Cho nên người tham muốn tích lũy nhiều thì khổ nhiều. Chưa có muốn cho có đã là cực, có rồi muốn còn mãi cực hơn chút nữa. Giữ không được mất đi thì đau khổ chảy thành nước mắt. Vì thế Phật dạy chúng ta phải tu để thức tỉnh, buông bỏ cái si mê lầm lạc này.
Bây giờ ta tu như thế nào? Nhiều người nói thân tôi bệnh hoạn, gia đình tôi nghèo khó hoặc căn tánh tôi chậm lụt nên rất tự ti mặc cảm. Bởi những mặc cảm đó nên không tu được. Họ mong ước đời sau sanh vào chỗ giàu sang, trí tuệ thông minh mới tu được. Quan niệm như vậy là sai lầm. Bởi trong đạo Phật, tất cả chúng sanh đều bình đẳng trên tánh giác. Vua tu cũng được mà dân tu cũng được, nam tu cũng được mà nữ tu cũng được. Quan trọng là phát huy được tánh giác bất sanh bất diệt của mình, đó là gốc. Còn tất cả các hình thức hiện có đây chỉ là nghiệp quả sanh diệt, nó không thật. Ta có thể chuyển đổi được.
Nhiều người than trời không hiểu sao tôi khổ thế này? Bởi trước mình đã gây tạo thì bây giờ phải chịu. Chỉ biết phát huy sự tu hành ngay trong hoàn cảnh này thì mới chuyển đổi được các nghiệp cũ. Nhờ nắm vững lý nghiệp báo mà: Thứ nhất chúng ta không sợ sệt nhát nhúa, thứ hai chấp nhận hiện cảnh không than oán, thứ ba quyết tâm không tạo nghiệp nữa. Giá trị có ngay trong lúc chúng ta đang sống giữa cảnh đời bất như ý này. Cho nên Phật dạy muốn biết được thành quả ngày mai thì hãy nhìn việc làm ngay bây giờ. Hôm nay ta công phu hời hợt, không đắc lực mà muốn thành Phật thì không thể có chuyện đó. Nghiệp của mình cởi ra, lầm của mình bỏ đi, si mê của mình đập nát, phát huy trí tuệ sẵn có nơi mình thì nhất định thành Phật tức thì.
Phật là gì? Là giác. Cái giác đó không phải ai ban cho ta, mỗi người đều có tánh giác. Hiểu rõ như vậy nên bỏ được mê lầm thì phát huy được tánh Phật của chính mình. Chúng ta có thể làm Phật bất cứ lúc nào ở đâu, giữa chợ, ngoài đường. Đôi khi ngay trong cuộc giằng co với nhau, mà ta chợt tỉnh thì chất Phật hiện tiền. Tu hành như thế mới là tích cực. Cho nên ngay giữa cuộc đời uế trược này mà ta thoát ra, không phải chạy tìm nơi nào khác. Vì thế nhà Phật dùng hình ảnh hoa sen để nói lên sự an lạc giải thoát được thực hiện ngay giữa lòng thế gian đầy đau khổ này.
Người yếu đuối trốn đời vào chùa tu không nổi, qua một thời gian sẽ chạy mất. Chỉ người nào gan dạ thấy được lẽ thực và dám làm dám chịu mới có bản lĩnh tu hành. Như muốn cho hoa sen tốt ta phải vô phân, tước bỏ lá hư, chăm chút lá cọng gốc rễ từ trong bùn tanh, chứ không thể thắp nhang lạy chậu hoa được. Tất cả những việc đó tựu trung chúng ta có thể lấy làm kim chỉ nam cho việc tu hành của mình. Tu hành mà trốn tránh cuộc đời, xa lìa thế nhân, bịt tai bịt mắt thì dù có trải qua trăm ngàn đời ở trong rừng sâu núi thẳm cũng chẳng mộng thấy chút an vui, nói gì đến giác ngộ giải thoát! Cho nên người tu phải gan dạ, phải nhìn lại chính mình và chiến thắng lấy mình.
Ngày nay hiểu đạo rồi, chúng ta không cho phép mình chạy theo các thứ hư giả nữa. Thường tỉnh giác trong mọi việc làm, chuyên tâm phát triển công phu để tuệ giác phát sanh. Đó là chúng ta nhắm thẳng mục đích cứu kính giác ngộ giải thoát. Những lúc ăn ngon, ta chỉ biết cái ngon mà quên tu là mất tỉnh giác. Những lúc ngủ say chỉ biết chìm trong giác ngủ, quên tu là mất tỉnh giác. Những lúc họp mặt huynh đệ đông đủ vui vẻ, bàn tán việc này việc nọ, quên tu là mất tỉnh giác… Trong các hoàn cảnh như thế, Phật dạy ta phải chấn chỉnh rời bỏ ngay, thường tự răn nhắc mình thức tỉnh gắng tu, nếu không sẽ rơi vào lưới ma thôi.
Rõ ràng việc tu hành từ nơi chúng ta. Ví dụ ngày nay mình bị người ta khinh dễ hay bệnh tật liên miên thì biết đây là hậu quả do chính mình gây ra đời trước. Trong kinh Thập Thiện Phật nói rõ ràng, ngày trước mình giết người, sát hại sinh mạng chúng sinh thì ngày nay bệnh tật, chết yểu. Đâu phải tự nhiên bệnh tật máng vô cho mình hay tự nhiên người ta khinh khi mình. Tất cả đều có nguyên nhân quả báo. Cho nên cũng đồng thời trong một hoàn cảnh như nhau mà có người tươi tắn, khỏe mạnh ăn uống gì cũng ngon, bạn bè đông vui; có người ưu sầu ủ dột, ăn ngủ khó khăn, không ai thích gần gũi… Đó là phước báo riêng của mỗi người mà ra. Biết rõ như vậy chúng ta an tâm tu hành theo phước nghiệp đã tạo của mình.
An tâm bằng cách nào? Ví dụ hết gạo mình cũng an tâm, bị người ta khinh khi mình cũng an tâm. Ta biết tất cả đều có nhân quả, không phải tự nhiên khốn đốn khổ sở đến với mình. Nấu cơm mà không chuyên tâm, không chụm lửa, hoặc quên châm nước thì nhất định nồi cơm hư. Cho nên tu là sửa bỏ. Những gì xấu, những gì làm trở ngại mình bỏ đi, đó là công đức tu hành. Tu là vậy, chứ không phải đi chùa tụng kinh, lạy Phật cúng kiến cho nhiều. Phật tử giữ được những điều giới mình đã thọ là tu. Người đó nhất định sẽ được kết quả đúng như sở nguyện.
Nhiều người xem thường việc tu tập hằng ngày từ thân miệng ý của mình, nên ngay trong lúc tu có những gây cấn không đả thông nổi. Vì thế cả đời loay hoay lẩn quẩn, không đi tới đâu hết. Ngay trong đời sống này, chúng ta cố gắng phát huy được tâm chân thật, để năng lực đó mỗi ngày mỗi tăng tiến. Không chờ đợi, không ỷ lại mà tự mình tâm tâm niệm niệm tỉnh giác. Chúng ta đừng bao giờ ỷ lại mình có thầy giỏi bạn tốt, thiện hữu tri thức luôn bên cạnh giúp đỡ. Phật pháp không phụ người có ý chí, không đãi người kém ý chí. Tất cả đều do nơi chúng ta định đoạt lấy. Tôi nêu lên điều này nhằm kích dương những người đồng chí đồng hạnh, có duyên cùng tu tập trong một đạo tràng, cùng sống với tinh thần giải thoát thanh tịnh của Phật.
Đức Phật đã nhận ra được tính chất vô thường của thế gian nên Ngài sớm tìm đường thoát tục. Là một ông hoàng với vợ đẹp con ngoan nhưng Thái tử Tất-đạt-đa dứt khoát buông bỏ để tìm đường giác ngộ cho mình và muôn loài. Tấm gương đó đến ngày nay vẫn còn sáng chói trong nhân loại. Chúng ta so với Thái tử có là gì đâu, vậy mà ta không thể buông bỏ được những lỉnh kỉnh quanh mình. Người có bạc tỷ chưa chắc đã giữ được, trộm cướp nước lửa luôn chực chờ, còn mất lúc nào không biết. Chi bằng cơm rau đạm bạc mà lòng thanh thản nhẹ nhàng. Chúng ta nên sáng suốt một chút, sao cho cuộc sống an ổn tu hành là tốt nhất.
Tất cả vật chất gầy dựng được như tiền bạc, địa vị, danh vọng hết lên rồi xuống, từ vua chúa đến hàng cùng đinh đều chìm nổi như nhau, có gì tồn tại mãi đâu. Dữ dằn như Tần Thủy Hoàng, Lê Long Đỉnh… rồi cũng ra tro, ma quỷ nào sợ các ông! Trong kinh A-hàm kể câu chuyện đức Phật nói với người lượm được vàng đó là rắn độc, bỏ đi nhưng kẻ ấy không tin. Đến chừng người ta phát hiện vàng của triều đình bị mất, anh chàng bị bắt, chịu tù đày khổ sở. Khi ấy nhớ đến lời Phật khuyên thì đã muộn rồi. Cho nên Phật bảo chúng sanh mê muội chấp giả cho là thật, quên mất cái chân thật sẵn có của mình, vì vậy đời đời kiếp kiếp trôi nổi khổ đau không có ngày cùng.
Làm sao phát huy được cái chân thật? Như tới giờ ăn thì ăn, tới giờ ngủ thì ngủ, bệnh uống thuốc, khỏe làm việc… đơn giản vậy thôi. Không đòi hỏi rắc rối, không đặt điều nọ kia, có gì ăn nấy, nằm đâu ngủ cũng được. Tâm rỗng rang giản dị, không chất chứa thứ gì trong đó hết. Nỗ lực tu hành như vậy, bảo đảm dù chúng ta không muốn, tánh giác cũng hiện sờ sờ trước mắt. Khỏi phải lạy xin với Phật cho con được giác ngộ giải thoát, thành Phật này Phật nọ. Cho nên lời khen tiếng chê có gì liên hệ đâu, quan trọng là tánh giác của chính mình. Phát huy nó ngay trong mọi việc sinh hoạt hằng ngày, đảm đương nổi thì an vui tự tại, đảm đương không nổi thì mất mình thôi.
Thái tử Tất Đạt Đa sau khi nghiệm kỹ những nỗi đau khổ của kiếp người, Ngài bỏ thành đi tu. Trước tiên Ngài tu khổ hạnh trong rừng già, ngày chỉ ăn một hạt đậu, một hạt mè, thân thể gầy còm suy kiệt đến độ chỉ còn da bọc xương, hai mắt sâu hút như hai đáy giếng. Qua đó chúng ta thấy quyết tâm tu hành của Ngài như thế nào rồi. Bởi quyết tâm như vậy nên sau khi từ bỏ khổ hạnh, dưới cội Tất-bát-la Ngài phát thệ nguyện: Nếu không tỏ ngộ đạo Bồ-đề, thề không rời khỏi tòa cỏ này. Nhờ quyết tâm ấy, đức Phật nhập đại định phát huy được tuệ giác, thành tựu đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Chúng ta ngày nay cũng phát nguyện nhưng không có ý chí lẫm liệt như đức Phật, thì làm sao nhận được tánh giác, làm sao sống được với ông chủ của mình, làm sao đừng bị động bởi tất cả cảnh duyên chung quanh? Chúng ta không dám kỳ vọng được như Phật, nhưng ta vẫn có thể nhận ra ông chủ của mình. Nghĩa là sao? Từ lâu nay ta lầm mê nên bị sinh, bị tử đau khổ. Khi nhận ra được tánh giác, sống với ông chủ rồi thì giống như các Thiền sư xem việc sinh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ, nhẹ nhàng thôi. Đối với sống chết ta không sợ cũng không thích, thản nhiên tự tại. Được vậy gọi là thấy đạo và sống đạo rồi đấy.
Hòa thượng cũng thường dạy, lâu nay chúng ta lầm nhận đồ giả cho là thậät nên khổ. Như mình cất cái cốc định tu trọn đời nhưng mới hai ba năm, dông gió nổi lên nó sập đi. Thế là khổ. Lúc đó nếu ta bình thản thấy được lẽ thực của các pháp, không có gì tồn tại cả, ngay như thân mạng mình cũng không bền chắc, nói gì các thứ khác. Nhờ hiểu rõ như vậy, mình không buồn phiền đau khổ, vui vẻ dựng tạm cái cốc khác nương náu tu hành. Đó là tinh thần giác ngộ giải thoát ngay trong cuộc đời này.
Trong kinh Pháp Hoa, Bồ-tát Thường Bất Khinh tuyên dương chất Phật của chúng sanh bằng cách gặp bất cứ ai, Ngài cũng chấp tay bái bái nói: Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều sẽ thành Phật. Chỉ thế thôi, không giảng đề tài nào, không tổ chức cúng kính gì cả. Đơn giản quá, tại sao chúng ta không học theo Ngài? Không dính mắc chuyện của ai, chuyên tâm phát huy tánh giác của mình bằng cách buông bỏ tất cả vọng tưởng. Chỉ một bề nhớ và sống lại với tánh giác của mình thì hay biết mấy. Vị nào nhớ như vậy, nói như vậy, làm như vậy thì một buổi sáng là một buổi Bát-nhã, một ngày qua là một ngày Bát-nhã. Chẳng phải tụng kinh tọa thiền suốt ngày suốt đêm mới gọi là tu. Thực hiện được việc đó chính là thật tu vậy. Làm sao chúng ta phấn phát thường xuyên như thế cho tới ngày viên mãn mới thôi.
Người chuyên tâm tu hành thì phải gác qua mọi chuyện của thế gian, ngay cả việc về thăm gia đình. Nói thế không có nghĩa tôi phủ nhận ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ. Nhưng chúng ta đang là người xuất gia, phải lo việc hành trì giới hạnh trong đạo, ngày nào thành tựu được đạo nghiệp thì việc ân đền nghĩa trả không khó. Muốn thành tựu đạo nghiệp thì tất cả mọi việc khác phải xếp lại hết. Những gì trở ngại cho việc tu, chúng ta chặt đứt, quăng ném đi thì mới tiến được.
Tổ Qui Sơn dạy “Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thối khuất”, nghĩa là kia trượng phu ta cũng như thế, không nên tự khinh mà lui sụt. Người xưa đã thực hiện được những điều gì thì ngày nay chúng ta cũng thế. Phật Tổ tu đến chỗ cứu kính viên mãn, chúng ta cũng có thể tu như thế. Nắm chắc như vậy, chúng ta mới phấn phát tiến tu, gác qua mọi chuyện tạp nhạp chung quanh. Cho nên công phu không đắc lực thì không thể thành tựu sở nguyện, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới mong xong việc lớn. Ngài Hoàng Bá nói: Chẳng phải một phen xương thấm lạnh, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương. Người tu chúng ta cần phải biết điều này.
Người tu đối với ngũ dục phải thật cẩn trọng. Nó không thật nhưng muốn buông nó không dễ đâu. Phải có trí tuệ soi thủng, nhà thiền gọi là quán chiếu. Tinh thần quán chiếu phải mạnh mẽ xuyên suốt mới được. Như khi thấy một người đẹp, ta phải nhập vai bác sĩ giải phẩu liền. Xẻ thân ấy ra, để móng riêng, xương riêng, da riêng, thịt bầy nhầy riêng, mở riêng… bây giờ tìm xem cái nào đẹp? Quán chiếu như vậy thì người đẹp tan mất ngay. Phật bảo đó là dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu ngũ uẩn giai không, vượt qua tất cả khổ ách.
Sau khi giác ngộ, Thế Tôn đã nói câu này: Trước tâm ta buông lung, chạy theo ái dục lạc. Nay ta chánh chế ngự, như câu móc điều voi (Pháp Cú). Ngài thừa nhận trước kia Ngài cũng lầm mê như bao nhiêu người, cũng ở trong ngũ dục nên có gia đình, vợ là Da Du Đà La, con trai là La Hầu La. Đức Phật không phải là bậc thần thánh nào đến đây. Ngài là một con người bình thường có cha có mẹ, cũng ham sống sợ chết như tất cả mọi người. Nhưng khi đã thức tỉnh những nỗi đau khổ của kiếp người, Ngài nhất quyết từ bỏ ngũ dục, tìm cách thoát ra nên quyết tâm tìm đạo giải thoát. Giống như người giữ voi, dùng móc sắt trị voi dữ.
Móc sắt đó là gì? Với người tu thiền đó là trí tuệ để tỉnh giác, chứ không gì khác hơn. Nếu không tỉnh, không giác thì bị vô minh mê mờ dẫn đi trong ngũ dục, để rồi làm nô lệ cho nó, bị nó sai khiến khổ sở không cùng. Con voi rất dữ dằn mà người ta dùng móc sắt điều phục được, thì ngũ dục cũng thế. Tâm buông lung điên đảo vọng tưởng dữ dằn cỡ nào, nhưng nếu có chiếc gươm trí tuệ vung lên thì nó phải nép mình thôi.
Nhà thiền thường mượn hình ảnh chăn trâu, để nói lên từng giai đoạn điều phục con trâu hoang của mình. Chúng ta là mục đồng đang chăn trâu, muốn chăn được trâu thì phải làm sao? Thứ nhất không được ham chơi. Không thể lùa trâu bỏ đó rồi đi mất, nó sẽ ăn hết lúa mạ của người. Thứ hai phải nắm dây thật chắc, tay cầm roi dẫn trâu đi ăn. Trâu vừa quờ quạng là quất liền. Nếu không có dây vàm không có roi trong tay, làm sao kéo trâu lại được. Như ngồi thiền ngủ gục hoặc vọng tưởng điên đảo, thì phải làm cách nào? Phải ăn bê ăn gậy, dũng mãnh ngồi ngay thẳng lên, răn quở điểm chỉ tận mặt ma giải đãi, ma hôn trần, ma loạn tưởng, khiến chúng phải rút lui. Người xưa nói, tự nghiêm khắc với mình khoan dung với người là yếu thuật tiến đạo.
Trở lại gương hạnh của đức Phật và pháp tu của Ngài, chúng ta thấy biểu tượng hoa sen nói lên sự giác ngộ giải thoát có được ngay nơi cuộc sống này. Nhờ thế chúng ta mới có thể vươn lên thành tựu được công phu tu hành của mình. đã nói, chúng ta không hẹn, không ỷ lại, phải tu tập ngay từ những bức xúc trong đời thường. Tự khắc tự tỉnh thì công phu sẽ tới nơi tới chốn. Người tu hành quan trọng nhất là phải có trí tuệ. Có trí tuệ mới tỉnh giác điều phục vọng tưởng. Sau khi đã giác ngộ đức Phật cũng dùng hình ảnh hoa sen để dạy chúng ta:
Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ bên cạnh đường,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch đẹp lòng người.
Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Đệ tử bậc chánh giác,
Sáng ngời với trí tuệ.
Như giữa đống rác nhớp, quăng bỏ bên cạnh đường tức là rác rưởi bỏ bên vệ đường, bên hầm hố không ai thèm để ý tới. Chỗ ấy hoa sen nở, thơm sạch đẹp lòng người, từ những chỗ rác rưởi đó, hoa sen mọc lên, vượt khỏi bùn lầy và nở hoa thơm ngát. Đó là giai đoạn mình chiến thắng ngũ dục, thành tựu công phu viên mãn.
Cũng vậy giữa quần sanh, uế nhiễm, mù, phàm tục, đệ tử bậc chánh giác, sáng ngời với trí tuệ. Đức Phật nói cũng vậy, giữa quần sanh tức trong cuộc đời nhơ nhớp phàm tục này, đệ tử bậc chánh giác là hàng Thích tử, phải sáng ngời bằng trí tuệ của mình. Bởi vì trong đạo Phật trí tuệ là gốc. Trí tuệ sáng ngời mới không lầm mê, mới vươn lên được. Nên người thiếu trí tuệ thì phải công phu như thế nào để trí tuệ được tròn đầy. Thật ra trí tuệ này chúng ta đã có sẵn nhưng mình quên, quay lưng với nó, thành có mà như không. Bây giờ ta chịu khó nhớ lại, đừng quay lưng với nó nữa, nhận và sống lại với cái chân thật của chính mình, không để các thứ khác xen vô, đó là người biết nhận lại báu vật của mình. Phát huy được trí tuệ rồi, không phải ngược xuôi lẩn quẩn ở chỗ phàm tục mờ tối nữa. Đó là lời dạy của đức Phật sau khi Ngài đã giác ngộ giải thoát.
Hình ảnh hoa sen mọc lên từ bùn lầy, vượt khỏi bùn lầy, nở hoa thơm ngát, nhằm chỉ cho chúng ta con đường đi đến giác ngộ giải thoát phải được thực hiện ngay nơi cõi đời nhơ nhiễm này. Vì vậy không bắt buộc phải ở chùa mới tu được, người tại gia cũng tu được, với điều kiện phải có sức tỉnh mạnh. Bài kệ trên là bài kinh đặc biệt độc đáo để chúng ta thành tựu đạo quả ngay nơi đời sống này. Tất cả chúng ta nên tâm niệm bài kinh này dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Đối với các Thiền sư, hoa sen không phải mọc từ bùn lầy mà ở trong lò lửa. Như ngài Đạo Huệ nói:
Sắc thân cùng diệu thể,
Chẳng hợp chẳng chia ly,
Nếu người cần phân biệt,
Trong lò một cành hoa.
Thân tứ đại, các hiện tượng, hoàn cảnh bên ngoài, Thiền sư nói như lò lửa, còn tánh giác có trong thân này là hoa sen. Người đầy đủ trí tuệ hằng sống với tánh giác của mình, không lệ thuộc thân tạm, cảnh huyễn. Đó là ý nghĩa một cành hoa trong lò lửa.
Thiền sư Ngộ Ấn thì dạy thế này:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin,
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Ngài thấy ngay nơi thân tứ đại có tánh giác bất sanh bất diệt đó, cũng như trong lò lửa hoa sen đang nở thật xinh. Người tu phải khéo nhận ra được chỗ này thì vượt khỏi trần lao, sống như Phật sống, không còn đau khổ lầm than nữa. Muốn thế phải ngộ được chỗ “diệu tánh rỗng không”, không còn chấp kẹt vào bất cứ một thứ gì. Được vậy chúng ta tha hồ thưởng thức sắc ngọc trong núi cháy.
Buổi nói chuyện hôm nay tôi mượn biểu tượng hoa sen để nêu lên đức tính của bậc giác ngộ giải thoát không tách rời khỏi thế gian, nhưng vượt lên trên thế gian, tỏa hương sắc tròn đầy. Người tu chúng ta cũng thế, không thể tìm cứu kính Niết-bàn ở đâu xa, mà ngay nơi căn trần này, chúng ta giác ngộ lấy. Tự khắc tự tỉnh, thường dùng trí tuệ chiếu soi là yếu tố căn bản nhất trong công phu tu hành của chúng ta. Được vậy, lo gì Phật đạo không thành.
Cầu chúc tất cả chúng ta đều là những đóa sen tươi thắm, điểm tô cho cõi nhân gian hương thơm tinh khiết của đạo giác ngộ giải thoát.
Thiền đào tạo những con người hùng dũng. Phát minh và sáng tạo chính là cốt lõi của đạo giác ngộ giải thoát.