headertvtc new


   Hôm nay Thứ năm, 18/04/2024 - Ngày 10 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

TÂM THIỀN

Khi nói đến tâm thiền tức là nói đến tâm đạo. Các bậc thiện hữu tri thức bảo tất cả chúng ta đều có sẵn tâm đó. Tuy nhiên nó ở đâu, như thế nào thì không ai có thể diễn tả hay chỉ được. Vì sao? Vì tâm này không hình tướng, không chỗ nơi, làm sao tả làm sao chỉ được. Cho nên nói tới tâm thiền là nói tới chỗ tự chứng tự biết, chứ không phải nói để mà chơi.

 

 

Cổ đức nó người tu mà không nhận được tâm này thì công phu luống uổng một đời. Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma có bài kệ:

            Ngoại tức chư duyên,

            Nội tâm vô đoan,

            Tâm như tường bích,

            Khả dĩ nhập đạo.

Dịch:

            Ngoài dứt các duyên,

            Trong không cột trói,

            Tâm như tường vách,

            Khả dĩ vào đạo.

Người tu muốn nhận được tâm đạo của mình, ngoài dứt các duyên, trong tâm không có gì ràng buộc. Người được như thế khả dĩ vào đạo. Qua lời dạy này, chúng ta thấy quả thực đạo không có gì rắc rối, rườm rà. Tổ chỉ thẳng cho chúng ta bên ngoài đối với tất cả các cảnh duyên, đừng chạy theo, dứt bỏ đi. Các duyên này là gì? Là tiền tài, danh vọng, gia nghiệp, vợ con… Bây giờ dứt như thế nào đây? Dứt không có nghĩa là dứt khoát buông bỏ không đoái hoài tới, dứt ở đây tức là đừng bị lầm nữa. Ví dụ như hồi trước chúng ta chưa biết nên lầm về con người, về các cảnh, chấp cho nó là thật nên khổ vui theo nó. Bây giờ chúng ta đã biết rồi thì không lầm nữa, không chạy theo nó nữa nên không vướng mắc, không khổ, được an ổn.

Điều này nói nghe dễ nhưng làm lại rất khó. Trong giấc ngủ, bữa ăn, mọi sinh hoạt lúc nào mình cũng vướng víu cái này, mắc mứu cái kia, bây giờ biểu dứt làm sao dứt. Mà không dứt được thì chưa tu được, chưa sống với tâm đạo được. Tâm đạo tức là tâm giác chứ không có gì lạ. Giác cái gì? Những cái ngày trước mình lầm, bây giờ không lầm nữa, gọi là giác.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy chúng ta muốn nhận được tâm đạo, thì điều kiện trước tiên là dứt các duyên bên ngoài. Dứt được bên ngoài rồi, trong lòng cũng không còn ràng buộc gì hết. Có khi chúng ta quên được những việc bên ngoài, nhưng bóng dáng tồn đọng trong lòng cứ hiện lên hoài, phần này khó hơn phần bên ngoài. Tổ dạy phải buông những bóng dáng bên trong luôn mới được. Chữ “đoan” (   ???có nghĩa là đầu mối, chỗ manh nha của mọi sự kiện. “Vô đoan” nghĩa là tất cả những dấy niệm, những mối manh ràng rịt trong lòng chúng ta không còn nữa, phải cắt đứt hết cho yên ổn. Hai việc này nếu tu được thì chúng ta mới có thể vào đạo.

Nếu chúng ta còn mơ màng, chưa có thái độ dứt khoát đối với việc tu hành, thì các thứ dây mơ rễ má ấy quả thực không dứt được. Nó thay hình đổi dạng lúc vầy lúc khác, lúc thương, lúc giận, không khi nào mình sống thực với tâm giác, thì làm sao có được sự an lạc. An lạc thật sự chỉ có nếu ta ổn định, làm chủ được tình hình trong cũng như ngoài, làm chủ được tất cả những dấy niệm lăng xăng. Phật nói người tự chiến thắng mình là người có chiến công hiển hách nhất đó. Chiến thắng được những cái bên ngoài, chiến thắng được những bên trong, chiến thắng mọi mặt, tức là ta đã làm chủ hoàn toàn.

Sự nghiệp giác ngộ giải thoát nằm ở chỗ hoàn toàn làm chủ đó. Điều này tự ta sẵn có, tự ta tu tập, tự ta giải quyết ổn định, chứ không phải việc bên ngoài. Cho nên càng hiểu đạo Phật, càng áp dụng đạo Phật vào đời sống, hưởng được chút chút lợi lạc, chúng ta càng thấy phấn khởi, thích thú vì khẳng định được khả năng làm chủ của mình. Đây là một sự trở về để nhận lại kho báu của mình, chứ không phải chạy ngược chạy xuôi cầu cạnh ai hết. 

Một khi nhận lại được kho báu nhà mình thì dù ở tại chợ, làm tất cả việc, mà ta vẫn tự tại, giải thoát như thường. Vì vậy dứt các duyên không có nghĩa là vứt bỏ các duyên, đóng tai, đóng mắt, đóng mũi lại. Chính định lực và trí tuệ đưa đến sự giải thoát khỏi các duyên. Ta vẫn sống, vẫn sinh hoạt, vẫn tiếp xúc các duyên bình thường mà không dính mắc, không lệ thuộc nó. Như vậy gọi là dứt. Đó là tinh thần của Tổ Bồ Đề Đạt Ma.

Tinh thần tu tập của Tổ Bồ Đề Đạt Ma còn được xác định rõ hơn nữa ở bài kệ:

            Bất lập văn tự,

            Giáo ngoại biệt truyền,

            Trực chỉ nhân tâm,

            Kiến tánh thành Phật.

Đây là bài kệ nổi tiếng, nói lên đường lối tu duy nhất của Tổ chỉ có thế. Ngài dạy một điều mà nó vượt ngoài ngôn ngữ, sách vở, đó chính tâm mình. Nhận lại và làm chủ được tất cả, tức kiến tánh thành Phật, chỉ có thế thôi.

Người có thể vào đạo hay khả dĩ nhận được tâm đạo là người đối với các trần cảnh, cụ thể là sáu trần không dính không kẹt. Tổ dạy “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, chúng ta có thể áp dụng như sau, trong cuộc sống hằng ngày đối với sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chúng ta đừng dính mắc, buông hết thì sẽ không bị động bởi chúng.

Ví dụ như đối với sắc trần, những hình tượng thuộc về sắc, chúng ta nhìn chỉ nhìn, chứ không dấy động chạy theo chúng, muốn chiếm hữu gìn giữ. Muốn vậy, ta phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của mình lên. Nếu thiếu trí tuệ, thiếu sự tỉnh giác, thì ta sẽ bị nó lôi cuốn ngay. Cho nên chỗ này chúng ta sử dụng trí tuệ, sử dụng sức tỉnh giác thật mạnh mẽ. Dùng được trí tuệ thì mới không bị các giác quan dẫn chạy ngược xuôi theo trần cảnh. Đây mới đích thực là tu, chứ không phải đi chùa, tụng kinh, làm những việc công đức nhiều mới gọi là tu.

Việc chính là làm sao chúng ta đầy đủ trí lực, trí dụng, không bị tất cả các pháp kéo lôi. Các giác quan tự tại, bình thản, sáng suốt trùm khắp, không bị chướng bởi một pháp nào. Bị chướng là sao? Ví dụ như mắt ta nhìn thấy tường vách, vật dụng trong nhà, không lầm cái cửa là vách tường, không lầm quạt máy là cái cửa, rõ ràng như vậy. Tuy nhiên nếu tôi thích một vật nào trong số đó, thì mắt tôi sẽ dừng ở vật ấy, chỉ thấy vật ấy mà không thấy rõ các vật khác nữa. Đó là bị chướng. Ngược lại, nếu tôi không để tâm vào một vật nào hết, tôi không bị nó kéo lôi nên mắt có thể nhìn thấy khắp một cách rõ ràng tự tại, đây gọi là không bị chướng. Mỗi vật mỗi vật ở trong phận vị của nó, ta không chạy theo nó, nó không chạy theo ta, đây gọi là tâm cảnh nhất như. Người sống được như vậy là người thể nhập pháp giới tánh.

Người có lực lượng như vậy trong nhà thiền gọi là đại định, chứ không phải đợi ngồi mới định. Thiền định trong mọi sinh hoạt, đối với tất cả các cảnh duyên lúc nào cũng thiền định. Chứ nếu đợi đến tụng kinh, ngồi thiền mới định thì một ngày một đêm, ta tu được bao nhiêu giờ? Tu như vậy khiêm nhường quá, nếu không nói là hoang phí thời gian, trong khi mạng sống của mình thật ngắn ngủi mong manh. Nếu trong mọi sinh hoạt, chúng ta không có thiền định thì xem như bị mất mát lớn lao.

Đối với người tu thiền, những gì cần suy nghĩ thì suy nghĩ, những gì không cần thì xin cắt. Tới giờ ăn thì ăn, không phải giờ suy nghĩ. Nếu ta đem những suy nghĩ vô thức ăn thì hóa mình nhai nuốt vọng tưởng, và một miếng cơm là nuốt một miếng nước mắt. Ăn như vậy sớm muộn gì cũng sẽ đau bao tử. Tới giờ ngủ thì ngủ, đem suy nghĩ vào trong giấc ngủ là ta muốn đưa cái đầu vào bệnh viện tâm thần đó. Bởi suy nghĩ thì mất ngủ, mất ngủ lâu ngày thì thần kinh rối loạn, điên là cái chắc rồi. Người tu thiền là người sống bình dị, chất phác, hồn nhiên. Tới giờ ăn thì ăn, ngon dở gì cũng ăn, rất hồn nhiên, rất dễ thương.

Thành ra từ chỗ công phu không ổn định, sẽ kéo theo một lô những bất như ý, rồi từ từ tâm lui sụt, tu hành không được, khổ càng thêm khổ. Ngồi thiền hay tụng kinh, niệm Phật trong lòng yên ổn, thấy nhẹ nhàng từ hơi thở cho đến sự điều hòa trong cơ thể. Tinh thần thoải mái mới có thể ngồi niệm Phật hoặc ngồi thiền một hai đồng hồ mà không mệt mỏi, lại tiến thấy thích thú. Trái lại, trong tâm bức xúc, thở không được, ngồi không yên, việc này việc kia rối tung lên, buổi sáng đó mình định ngồi một tiếng nhưng khoảng mười lăm phút là muốn kéo chân ra rồi. Bởi ngồi như thế không phải ngồi thiền, thì làm sao ngồi yên được.

Ngồi thiền mà nhập được thiền mới an lạc. Trong nhà thiền có từ “thiền duyệt”, tức niềm vui có được từ công phu hành thiền mà ra. Người tu thiền được thiền duyệt, ngồi thiền quên thời gian. Sau khi xả thiền rồi, niềm an lạc đó vẫn kéo dài liên tục. Sử các Thiền sư còn để lại rất nhiều những niềm vui như vậy. Đại sư Thái Hư nghe tiếng chuông báo giờ tọa thiền, Ngài theo chúng tọa thiền đến khi nghe tiếng bảo chúng báo xả thiền, Ngài cũng xả thiền. Hỏi ra mới biết, đây không phải tiếng báo xả thiền đầu hôm mà là tiếng báo xả thiền buổi khuya. Nghĩa là Ngài đã ngồi suốt đêm trong an định nên lặng sâu trong đó, thích thú với thiền duyệt. Sau khi xả thiền năm bảy ngày liên tiếp, thiền duyệt đó vẫn còn được triển khai.

Chúng ta ngày nay vừa kéo cái chân lên thì thấy bao nhiêu việc phiền não tới rồi. Ngồi chưa được mấy phút lại phải kéo chân xuống, kéo tủ lấy tiền đưa cho người này, sắp đặt cho người kia, đủ thứ chuyện trên đời. Giả như có chút gì an lạc trong khi tu, nhưng nó sẽ mất liền khi ta vừa kéo chân ra. Mình tu như thế thì chừng nào mới thành Phật, chừng nào mới được an lạc giải thoát đây? Cho nên ta tu mà chính mình tự đánh mất công phu của mình, cuối cùng chỉ gánh chịu sự thiệt thòi, trống rỗng. Hiểu như vậy chúng ta sớm quay trở lại, chấn chỉnh việc tu tập thế nào để có được nguồn an lạc ngay trong hiện đời, thì mai sau mới không sợ khổ sanh tử đến.

Chúng ta phải sáng suốt kiểm lại công phu của mình, dứt khoát không để cho đời tu lững lờ trôi qua theo ngày tháng. Chính các Thiền sư cũng đã rơi nước mắt cho việc này. Cứ sáng ra hành hương rồi chiều đốt một nén nhang tọa thiền. Cây hương ban sáng, cây hương buổi chiều đã tàn mà việc tu hành chưa phấn phát. Nghĩ đến thời gian qua suông như vậy mà rơi nước mắt, tự thương cho mình. Như thế thì bao giờ, ở đâu ta mới nhận lại và sống được với tánh giác hay tâm đạo của mình?

Chúng ta có duyên, tuy chưa đạt được tâm đạo nhưng có hiểu, có nhận và có phương pháp để thực hiện việc đó. Vậy thì lúc còn sức khỏe, còn điều kiện để công phu chúng ta không nỗ lực cắt đứt ngoại duyên, mỗi giờ hành trì phải là mỗi giờ làm chủ, không để qua suông bất cứ giây phút nào. Tóm lại chỉ quay trở về tâm ta thôi, không việc gì khác, đứng lăng xăng tìm đâu bên ngoài, mất công vô ích.

Nói đến tu hành chúng ta phải phấn khởi vì biết mình đã có sẵn tâm đạo rồi. Đây là lý nhân quả mà, có nhân thì phải có quả. Đã có Phật chủng thì nhất định sẽ thành Phật thôi, lâu mau tùy mỗi người. Chúng ta không lầm nhân quả, nghĩa là tu tập như thế, làm như thế nói như thế, suy nghĩ như thế, sẽ đưa đến kết quả như thế. Cho nên việc làm nào, ý nghĩ nào, ngôn ngữ nào kéo lôi, đưa đẩy ta vào chỗ tăm tối thì nhất định ta không làm. Là người mắt sáng, ta phải chọn tánh giác mà sống, từng bước tu tập để trở về với tánh giác của chính mình. Đó là bước an lạc sơ khởi của người tu nói chung hay người tu thiền nói riêng. Tại sao mình có sẵn của báu mà lại bỏ đi, không thèm đoái hoài tới, lại ngược xuôi theo các thứ giả tạm, không có giá trị gì? Cho nên điều cần nhất trong khi tu hành là chúng ta phải tỉnh, phải nhớ lại gốc gác quê hương của mình. Tỉnh nhớ mới trở về được, không tỉnh nhớ thì biết đâu mà về.

Trong công phu, ta thường nghe nói đến Nhất Hạnh Tam Muội và Nhất Tướng Tam Muội. Nhất Hạnh Tam Muội là gì? Nhất Hạnh Tam Muội là đối với tất cả chỗ không trụ tướng, không dính mắc những niệm yêu ghét, lấy bỏ, được mất… quy lại cũng là thiền. Tam muội là chánh định, được chánh định rồi thì trí tuệ bừng sáng. Sở dĩ trí tuệ chúng ta chưa bừng sáng là vì mình còn ngược xuôi nhiều việc, chưa định nên chưa chủ động. Không định, không chủ động thì bị động thôi, bị động là bị các pháp bức xúc kéo lôi.

Phật dạy tất cả pháp đều không thật, đến thân này cũng là đồ giả, tâm chúng ta đang suy nghĩ phân biệt cũng tâm giả, duyên hợp. Thế mà mình lại bị các thứ hư giả đó kéo lôi, có phải mê muội không? Bây giờ đừng để các pháp kéo lôi, đừng theo cảnh duyên bên ngoài, người hành trì như thế gọi là nhất hạnh. Ta nghe danh từ Nhất Hạnh Tam muội thì nghĩ rằng khó khăn lắm, phương pháp này chỉ để Phật, Bồ-tát thực hành thôi, chứ mình vô phần. Nếu pháp của Phật chỉ dạy cho người giác ngộ thì quả thật vô lý. Bởi vì nếu đã giác ngộ giải thoát rồi thì đâu cần tu nữa. Người mạnh khỏe đâu cần phải uống thuốc.

Pháp của Phật dạy là nhắm cho những người còn lặn hụp trong khổ đau, trôi giạt trong sông mê bể khổ. Khi được giải thoát rồi ta tự tại rong chơi khắp mười phương, đâu còn lệ thuộc pháp nào nữa. Trong kinh Kim Cang Phật dạy, người đã qua sông rồi mà còn vác thuyền trên lưng là người không bình thường. Qua được sông rồi thì thuyền bè không cần thiết nữa. Chúng ta tu hành chưa an lạc, còn bị bức xúc trong cuộc sống nên mới nương nơi pháp Phật để tu tập. Xong việc rồi thì pháp cũng bỏ, như hết bệnh thì thuốc không còn cần thiết. Nếu hết bệnh rồi mà vẫn tiếp tục uống thuốc thì thành một bệnh khác. Cho nên không nên cố chấp đối với pháp Phật.

Chúng ta dễ bị cảnh giả bên ngoài lôi cuốn, thiếu tỉnh giác nên mất mình. Ví dụ ta đang tụng kinh, bỗng nhiên nhớ cà phê đá. Kỳ thật, lúc này lẽ ra không nên nhớ chuyện đó, mà sao tự nhiên khô cổ quá tụng không được. Cho nên lẽ ra ta tụng đều đều vừa phải, nhưng ly cà phê đá cứ chận ngay cổ hoài, vì vậy phải đánh mõ tụng rút, tụng cho mau để thưởng thức ly cà phê đá chứ. Các dục là ảo giác, luôn tạo cho mình những cảm giác trong tưởng tượng, nhưng nó có sức thu hút, lôi cuốn rất mạnh. Cho nên đối trước ngũ dục mà ta vẫn bình thản, giữ tâm trong sáng an lạc, không bị động là đã đi được hơn nửa đoạn đường đến Niết-bàn rồi đó. Từng bước như vậy, ta làm chủ được rồi, dần dần mình sẽ làm chủ nhiều hơn trong tất cả các sinh hoạt ăn nghỉ, tiếp xúc, làm việc. Được vậy chắc chắn con đường giác ngộ giải thoát không còn xa.

Kế đến Nhất Tướng Tam Muội là gì? Là các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào mình cũng siêng năng tu tập. Nhất Tướng là thuần một thứ, Nhất Hạnh là thuần một hạnh. Đây là pháp tu hằng ngày của chúng ta. Pháp này chúng ta áp dụng ngay khi làm các công việc, chứ không hạn định trong thời gian nào hoặc trong hình thức nào. Ví dụ mình đang ngồi nghỉ, trước mặt không có vấn đề gì, bên tai không có vấn đề gì và trong lòng cũng không có vấn đề gì, đây mới thực sự là ngồi nghỉ. Chứ nói ngồi nghỉ mà trước mặt nhìn hết cái này đến cái nọ, bên tai thu nhận mọi âm thanh, hoặc trong lòng sắp đặt chương trình nọ kia thì không thể gọi là ngồi nghỉ. Dù cho người đó ngồi cả trăm năm như thế cũng không khỏe được chút nào vì có nghỉ được đâu. Với người tu chúng ta, làm việc gì chỉ biết việc đó thôi, không được tạp loạn.

Nhiều người cho rằng tu là phải lên núi non vắng vẻ, chứ như quí thầy làm rẫy làm ruộng, đủ thứ chuyện làm sao tu được? Nghĩ như vậy là chưa hiểu đạo. Tu không có nghĩa là trốn chạy cõi đời hay bó gối ngồi yên. Người xưa lên non lên núi là tùy duyên, tùy hạnh nguyện, chứ các Ngài không nói phải như vậy mới gọi là tu. Song, khi việc mình đã xong các Ngài cũng xuống núi, hòa quang đồng trần tiếp độ chúng sanh, chứ đâu phải chỉ biết yên phận mình thôi. Làm việc mà luôn tỉnh giác, luôn nhớ ông chủ của mình thì ở đâu cũng tu được, ở đâu cũng là đạo tràng.

Thời đức Thế Tôn còn tại thế, hàng đệ tử xuất gia chứng thánh quả nhiều vô kể. Nhưng hàng cư sĩ mang hình thức thế tục đã đạt được thánh vị không phải không có, như cư sĩ Duy Ma Cật, phu nhơn Thắng Man, phu nhơn Mạt Lợi… Họ là những vị cư sĩ có quyền chức ,phải đảm đang rất nhiều công việc mà vẫn tu và được giải thoát an lạc như thường. Sau này đến thời chư Tổ, hàng cư sĩ tại gia chứng đạt được chỗ thâm yếu cũng không thiếu chi, như cư sĩ Bàng Long Uẩn, cô Linh Chiếu, ở Việt Nam ta có Tuệ Trung Thượng Sĩ, vua Trần Thái Tông v.v… Như vậy đủ để chúng ta tin rằng, chỉ cần có ý chí, có trí tuệ thì ai cũng có thể nhận và sống được với tâm đạo của mình.

Để diễn tả tâm đạo, tổ dạy thế này:

            Tâm địa hàm chư chủng,

            Phổ vũ tất giai manh,

            Đốn ngộ hoa tình dĩ,

            Bồ-đề quả tự thành.

Dịch:

            Tâm địa chứa nhiều giống,

            Gặp mưa đều nẩy mầm,

            Đốn ngộ tự tâm rồi,

            Quả Bồ-đề tự thành.

Nghĩa là đất tâm của mình có sẵn hạt giống Bồ-đề. Người tu nào nhận được như thế, thì sẽ thành tựu được an lạc, được quả Bồ-đề. Phương pháp tu tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy cũng chính là đây. Ngài chỉ thẳng tâm thể cho chúng ta bằng cách ngay trong mọi sinh hoạt, nhận lấy tâm đó. Quả giác đã sẵn trong ta, chỉ khéo nhận và sống với quả giác là chúng ta giải thoát. Lục Tổ Huệ Năng cũng có bài tụng thế này:

            Tâm bình chẳng nhọc trì giới,

            Hạnh trực đâu cần tu thiền,

            Báo ân, nuôi dưỡng cha mẹ,

            Nhân nghĩa, già trẻ thương nhau.

Ngài dạy tâm bình thì khỏi phải trì giới. Bình là bằng thẳng, không chao đảo, không méo mó. Tâm chúng ta bằng thẳng không cong vạy thì giới đức tự tròn đầy, không trì vẫn đầy đủ các công đức, oai nghi. Hạnh đã ngay thẳng rồi thì không phải tu thiền. Tức mọi sinh hoạt hằng ngày của chúng ta không bị vướng mắc bởi trần cảnh, tự tại an nhiên thì nói tu nói thiền là dư. Pháp tu thiền nhằm chỉ cho chúng ta cách làm chủ được mình, đi thẳng, nhìn thẳng, nói thẳng, không bị bên đây bên kia kéo lôi. Nếu hạnh đã thẳng rồi thì đâu cần phương pháp tu tập nào nữa, như chuyện uống thuốc tôi đã nói ở trên. Nhưng nếu chưa thẳng thì xin tu dùm cho, phải công phu và công phu liên tục để cho nó được bình được thẳng.

Ngài nói báo ân là nuôi dưỡng cha mẹ, nhân nghĩa là già trẻ thương nhau, giản dị như vậy. Tổ nói những điều bình thường như vậy để chúng ta ý thức được việc tu hành không ngoài những bổn phận, công việc thường nhật trong cuộc sống. Phận làm con thì phải biết phụng dưỡng cha mẹ, lo lắng chu toàn mà tâm vẫn thanh thản vui vẻ, không cau có quạo quọ, nay vầy mai khác. Già trẻ biết kính nhường thương mến nhau là sống đúng với đạo lý làm người. Những việc bình thường như thế, nếu chúng ta trôi tròn được trong một tâm an ổn thư thái là ta đã sống đạo.

            Thuốc đắng trừ được bệnh khổ,

            Lời ngay quả thực khó nghe,

            Sửa quấy liền sanh trí tuệ,

            Dấu lỗi trong tâm chẳng lành.

Những lời dạy này rất bình thường mà chứa đựng đầy đạo lý. Ngài nói thuốc đắng thì trị tận gốc bệnh. Bệnh của chúng ta là bệnh khổ. Nếu cứ khư khư chấp cái nhìn cái biết của mình là đúng, của người là sai thì nhất định ta sẽ chịu khổ, vì không bao giờ được như ý. Cho nên nói thật thì mếch lòng, Phật Tổ bảo cái nhìn của mình không hẳn là đúng, đừng chấp như vậy nữa. Nói thế là va chạm, là thương tổn bản ngã chúng ta rồi. Nhưng chính sự thẳng thắn ấy mới trị tận gốc bệnh cho mình. Thành ra nói thuốc đắng thì trị được bệnh khổ, lời ngay thì khó nghe. Lời nói thẳng thường làm đau lỗ tai, tuy nhiên nếu người chịu nổi, nghe nổi thì mới có thể tiến được.

Sửa quấy liền sanh trí tuệ, dấu lỗi trong tâm chẳng lành. Người chịu sửa những điều quấy của mình là người phát triển được trí tuệ. Ngược lại người dấu những cái dở của mình, người đó không phải người tốt. Pháp tu này rất dễ dàng, nếu chịu áp dụng chúng ta sẽ thấy được an lạc tức khắc thôi. Ví dụ như bây giờ ta biết trong lòng mình còn nhiều bất ổn thì lôi nó ra bỏ đi, đâu phải khó khăn gì. Đừng cho nó hiện hữu trong lòng mình thì sẽ được an ổn, trí tuệ hiện tiền.

Hòa thượng thường dạy chúng ta “Biết vọng không theo”. Nếu chúng ta không biết những dấy niệm là vọng, thì không khi nào mình buông được. Đằng này vừa có một dấy niệm dấy khởi, chúng ta biết nó không thiệt, ta bỏ đi, không chạy theo thì sẽ được an lạc, đó là chúng ta có trí tuệ. Cho nên biết các dấy niệm là vọng buông đi thì trí tuệ hiện tiền.

Hằng ngày lợi ích chúng sanh, thành đạo đâu là việc khác. Nếu mình tu tập như vậy tức mỗi ngày tiêu dung hóa giải được những tập khí xấu, những dấy niệm lăng xăng, những loạn tưởng điên đảo của chính mình. Như vậy việc thành đạo đâu phải là quá khó, không hể làm được.

            Bồ-đề tự nhận nơi tâm,

            Huyền đạo cũng chẳng việc ngoài,

            Người người theo đây tu hành,

            Tịnh Độ ở ngay trước mắt.

Là người tu, nếu chúng ta lăng xăng tìm cầu bên ngoài là sẽ mất mình, tu không được. Người tu nếu không tỉnh giác, không sống được với tánh giác của mình ngay trong mọi sinh hoạt thì không gọi là người tu. Cho nên người tu phải là người tỉnh giác. Đã tỉnh giác rồi, thì mọi hiện tượng chung quanh không còn lầm nữa, thấy được lẽ thực của các pháp, tức là có đầy đủ trí tuệ. Người đầy đủ trí tuệ là người sống được với tâm đạo của mình.

Có người hỏi: “Người hay nổi giận tu được không?”, tôi đáp: “Được chứ sao không”. Bởi vì tánh giác không có mù mờ, không có nổi giận gì hết. Vừa có một niệm dấy khởi lên, mình bỏ đi thì yên. Ngay khi giận là tâm vọng động phiền não chứ tánh giác đâu có vọng động phiền não. Vì vậy lúc đó chỉ cần thấy rõ gốc giận không thật, giận tự lặng thì trở về tánh giác thôi. Đó là tu rồi. Ngay cốt tủy ấy mà chúng ta hành, thì luôn luôn trở về tánh giác. Còn đang lúc nổi giận, mà cố chấp những ý nghĩ mình là đúng, người ta sai thì dĩ nhiên sẽ điên lên thôi.

Điểm cuối cùng làm chướng đạo tâm nhất là chấp ngã. Cho nên người tu Phật thì gốc là phải trị chấp ngã. Chấp ta là trung tâm của vũ trụ, là chân lý. Phá được cái chấp này mới mong phát triển được tuệ giác, phát triển được tâm đạo. Muốn phá ngã, chúng ta phải thường xuyên quán sát thân tâm này không thật, thấy rõ tính chất vô thường của nó, dần dần buông bỏ những cố chấp của mình. Công phu lâu ngày ta sẽ phá được ngã và ngã sở.

Nên nhớ tâm đạo là cái sẵn nơi mỗi người chúng ta, nhưng nếu bị lớp bản ngã bao bọc thì không dễ gì ta sống được với đạo tâm của mình. Vì vậy người tu Phật, nhất là tu thiền phải thấy như thật bản chất của các pháp, để từ đó không lầm nhận cái giả cho là thật, không lầm nhận thân tâm này nữa. Được vậy mới mong sống được với tâm đạo của mình. Tâm đạo chính là Tâm thiền.

Cầu mong toàn thể chúng ta nhận lại và sống được với Tâm thiền của mình.

[ Quay lại ]