headertvtc new


   Hôm nay Thứ bảy, 27/04/2024 - Ngày 19 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Kinh Sách

Trang Kinh Sách Đang Cập Nhật....

Thuyết Giảng

Thuyết Giảng

Thời khoá

KHÓA BIỂU TU HỌC  VÀ LAO ĐỘNG

A. HÀNG NGÀY
SÁNG  
  03g 00  Một hồi 3 tiếng kẻn báo thức
  03g 15  Hô chuông tọa thiền
  05g 00  Một hồi kiểng xả thiền
  05g 45  Ba tiếng bảng tiểu thực
  06g 30  Ba tiếng kiểng công tác
  10g 00  Một hồi kiểng xả công tác
TRƯA  
  10g 45

 Ba tiếng bảng thọ trai

  12g 00

 Ba tiếng kiểng chỉ tịnh

CHIỀU  
  13g 00

 Một hồi ba tiếng kiểng thức chúng

  14g 00

 Ba tiếng kiểng học

  16g 00

 Nghỉ học

  17g 00

 Một hồi kiểng báo nghỉ công tác trong ngày - Tiểu thực

TỐI  
  18g 00  Ba tiếng kiểng lễ tụng kinh sám hối
  18g 30  Ba tiếng kiểng tọa thiền - Hô chuông tọa thiền 
  21g 00  Một hồi kiểng xả thiền
  21g 30  Ba tiếng kiểng chỉ tịnh
B. MỖI THÁNG
Công tác Phổ thỉnh  và Thỉnh nguyện là ngày 15 và ngày 30 hàng tháng . Tháng thiếu là ngày 29

Tiểu Sử HT Ân Sư

Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Sinh ngày 24 tháng 07 năm Giáp Tý (1924), tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long).

Thân phụ của Hòa thượng húy Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao Đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hòa thượng húy Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng thanh bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tụy hi sinh vì chồng vì con.

Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ.

Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác thứ ba, Hòa thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho Bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng thinh không cô tịch, Hòa thượng rúng động như có một nỗi niềm giao cảm tự bao giờ. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ:

Non đảnh là nơi thú lắm ai,
Đó cảnh nhàn du của khách tài.
Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc,
Chuông hồi văng vẳng quá bi ai!

Có thể nói rằng chí xuất trần của Hòa thượng nổi dậy kể từ đây.

Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hòa thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hòa thượng vì thế càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm: “Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ.”

Từ dạo đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc đời của Hòa thượng rẽ sang một con đường sáng.

Ngày 15 tháng 07 năm Kỷ Sửu 1949, sau ba tháng công quả tại chùa Phật Quang, Hòa thượng được Tổ Thiện Hoa chánh thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của Người đã được thành tựu. Từ đây Hòa thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ em. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú Tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, song Hòa thượng luôn để tâm học Giáo điển. 

Năm 1949-1950, Hòa thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ ba tại Phật học đường Phật Quang.

Đến năm 1951, Hòa thượng bắt đầu học lên Trung đẳng.

 Một khuya nọ, nhân đọc kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Phật chỉ Tôn giả A-nan nhận ra Bản tâm chân thật của chính mình qua Tánh thấy, Tánh nghe, bất giác Hòa thượng xúc động rơi lệ. Phải chăng đây là dấu hiệu cho biết chủng duyên Phật pháp nhiều đời của Người đã bắt đầu nẩy mầm?

Cũng trong năm này chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng cũng được theo và thọ giới Sa-di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu. 

Năm 1953 Hòa thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài Gòn, tiếp tục học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hòa thượng được thọ giới Cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng đàn đầu.    

Từ năm 1954-1959, Hòa thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt. Những vị đồng khóa cùng ra trường với Hòa thượng như quí ngài Huyền Vi, Thiền Định, Từ Thông...

Như vậy là ngót mười năm Hòa thượng đã trải qua hai năm Sơ đẳng, ba năm Trung đẳng, bốn năm Cao đẳng. Tốt nghiệp các lớp Phật học xong là đoạn đường Tăng sinh đã hoàn tất. Hòa thượng bước sang thời kỳ hóa đạo. Hòa thượng là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng pháp, có uy tín lớn thời bấy giờ và được sự mến mộ của Phật tử xa gần.

Năm 1960-1964, Hòa thượng đã giữ những chức vụ trong Phật giáo:

  • Phó vụ trưởng Phật học vụ.

  • Vụ trưởng Phật học vụ.

  • Giáo sư kiêm Quản viện Phật học viện Huệ Nghiêm.

  • Giảng sư Viện đại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm,...

Sau lễ mãn khóa Cao Trung Chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng thầm nghĩ với ngần ấy đóng góp cũng phần nào tạm đủ nói lên tấm lòng tri ân và báo ân của mình đối với Thầy Tổ rồi. Hòa thượng liền xin phép với Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Chí đã quyết, Hòa thượng dằn lòng dứt áo ra đi, âm thầm một mình một bóng lên chốn non thâm.

Hòa thượng đã thật sự giã từ Phật học viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng. Nhưng hai tiếng “Tăng Ni” vẫn xoáy sâu vào lòng Người, để sau này chút duyên “Thầy Trò” ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.

 

 

Tháng 04 năm 1966, Hòa thượng dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Đại Tạng Kinh, nhưng đã ấp ủ một Thiền tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình. 

Đến rằm tháng tư năm Mậu Thân, Hòa thượng tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: “Nếu đạo không sáng, thệ không ra thất.” Thế là cửa sài đôi cánh khép. Toàn thể môn nhân qui ngưỡng lên non một lòng mong đợi.

 

 

Tháng 07 năm 1968, Hòa thượng liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát-nhã. Từ con mắt Bát-nhã trông qua Tạng kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Đại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng khám phá từ công phu thiền định của Người.

 

Ngày 08 tháng 12 năm ấy, Hòa thượng tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy. Pháp Lạc thất thật xứng đáng là linh hồn của dòng thiền Chân Không. Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của Hòa thượng. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau này Phật giáo Việt Nam vinh dự có một ngôi sao sáng mở ra trang Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng vào cuối thế kỷ 20.

Hòa thượng đã từng nói: “Tôi là kẻ nợ của Tăng Ni và Phật tử. Ai biết đòi thì tôi trả trước, ai chưa biết đòi thì trả sau.” Suốt đời Ngài đều dốc hết sức mình lo cho Phật pháp, đặc biệt là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành tiến bộ. Tăng Ni tu hành có tiến bộ thì Phật pháp mới còn và lớn mạnh được. Sự tu hành tiến bộ của Tăng Ni là niềm vui của Ngài. Ngài nói: “Hoài bão của Thầy đều gởi gắm hết vào sự nỗ lực tu tập của tụi con. Tăng Ni tu có niềm vui, sáng được việc lớn, đó là biết thương tưởng đến Thầy. Bằng ngược lại thì thật là Thầy chưa đủ phước để được vui trước khi nhắm mắt. Bởi vì nguyện vọng khôi phục Thiền tông Việt Nam, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Thầy chưa thành tựu.”

   

Các Thiền viện sau đây chính thức được Hòa thượng thành lập, làm nơi giáo hóa và hướng dẫn tu hành:

  • Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ - Vũng Tàu, thành lập vào tháng 04 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.

  • Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 08 năm 1974.

  • Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 04 năm 1975.

  • Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 04 năm 1979.

  • Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 02 năm 1980.

  • Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 06 năm 1980.

  • Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 07 năm 1987.

  • Thiền viện Liễu Đức, Long Thành - Đồng Nai.

  • Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt - Lâm Đồng, thành lập tháng 04 năm 1993.

  • Chùa Lân - Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.

  • Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

  • Thiền viện Hương Hải, Long Thành - Đồng Nai.

  • Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành - Đồng Nai.

  • Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành - Đồng Nai.

  • Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2001.

  • Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Hoa Kỳ, thành lập năm 2000.

  • Thiền viện Bồ Đề, Boston, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.

  • Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.

  • Thiền tự Ngọc Chiếu, Garden Grove, California, Hoa Kỳ.

  • Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ.

  • Thiền tự Đạo Viên, Québec, Gia Nã Đại, thành lập năm 2002.

  • Thiền tự Thường Lạc - Pháp.

  • Thiền tự Pháp Loa - Úc.

  • Thiền tự Hiện Quang - Úc.

  • Thiền tự Hỷ Xả - Úc.

  • Thiền viện Tiêu Dao - Úc.

  • Thiền tự Tuệ Căn - Úc.

Hòa thượng cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long.

 

      

Hòa thượng giảng và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Ngoài ra Hòa thượng còn giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử.

 

Hòa thượng đã đi du hóa và thăm viếng các nước:

  • Cam-pu-chia (1956)

  • Ấn Độ, Tích Lan và Nhật Bản (1965)

  • Trung Quốc (1993)

  • Pháp (1994 - 2002)

  • Thụy Sĩ (1994)

  • Indonesia (1996)

  • Gia Nã Đại (1994 - 2002)

  • Hoa Kỳ (1994 - 2000 - 2001 - 2002)

  • Úc Châu (1996 - 2002).

 (Nguồn Thientongvietnam.net)

Thanh Qui

I. LỜI MỞ ĐẦU

 Sống chung trong Thiền viện, Thiền sinh tự nguyện đồng lao cộng khổ với nhau hầu bảo đảm lý tưởng

 giác ngộ giải thoát của chính mình. Quyết thực hiện kỳ được lý tưởng ấy. Thiền sinh triệt để tuân hành

 đúng nội quy của Thiền viện.

II. PHẦN CHÁNH

 A. Tuân hành lục hòa:

 Để thành một đoàn thể Tăng đúng với ý nghĩa Tăng. Thiền sinh trong Thiền viện phải tuân hành lục

hòa.

 1.  Thân hòa đồng trụ:

 Về phần thân, ăn, mặc, ngủ nghỉ và công tác, tất cả Thiền sinh đều hòa đồng nhau.

 2.  Khẩu hòa vô tránh:

 Về phần miệng, luận bàn nói chuyện Thiền sinh phải dùng lời hòa nhã, không lớn tiếng cãi rầy.

 3.  Ý hòa đồng duyệt:

 Đối đãi nhau, Thiền sinh tâm ý phải vui hòa, không cố chấp phiền hận.

 4.  Giới hòa đồng tu:

 Tất cả Thiền sinh trong Thiền viện đều giữ 10 giới làm căn bản và sống đúng nội quy.

 5.   Kiến hòa đồng giải:

 Sống chung nhau, Thiền sinh có những hiểu biết đều giải bày cùng nhau, đồng hiểu đồng cảm thông,

 không nên có thành kiến riêng tư.

  6. Lợi hòa đồng quân:

 Tất cả tài sản quyền lợi trong Thiền viện là của chung của những Thiền sinh hiện có mặt, cần phải chia

 đồng đều nhau, không ai có quyền nhận giữ riêng.

 B. Mười giới

 Phần giới luật, Thiền sinh cố gắng giữ 10 giới làm căn bản.

 1.  Không sát sanh (ngoại trừ làm công tác vô tâm phạm đến sinh mạng chúng sanh).

 2.  Không trộm cắp.

 3.  Không dâm dục.

 4.  Không nói dối.

 5.  Không uống rượu.

 6.  Không dùng dầu thơm, các chất thơm xoa mình và không đeo đồ trang sức.

 7.  Không nghe nhạc và tự hát múa. (trừ trường hợp nhạc đạo)

 8.  Không nằm giường đẹp rộng lớn.

 9.  Không ăn phi thời. (vì công tác hai buổi, giới nầy không thể giữ được).

 10. Không giữ tiền bạc và châu báu. (trừ trường hợp đi đây kia và giữ tiền cho chúng)

  C. TÓM KẾT

 Trong mười giới, năm giới đầu thuộc về trọng, năm giới sau thuộc về khinh. Nếu Thiền sinh phạm một

 trong năm giới trọng, hoặc một trong lục hòa, có thể bị mời ra khỏi Thiền viện. Nếu phạm một trong

 năm giới khinh chỉ bị cảnh cáo.

III.  PHẦN PHỤ

1. Để giữ uy tín của Thiền viện, Thiền sinh ban đêm không được đi tới am cốc Ni, trừ trường

hợp cứu cấp hoặc duyên sự đặc biệt, xong phải đi đông người.

2. Dù ban ngày Thiền sinh cũng không được đi một mình đến am cốc Ni.

3. Không mượn Ni trẻ may vá quần áo và nấu nướng ; trừ trường hợp lễ lớn.

4. Giờ công tác, giờ tu tập, giờ thọ trai, Thiền sinh không được trễ nải.

5. Để tiết kiệm tài sản của Thiền viện, Thiền sinh không được hút thuốc, uống bia và thường đi

đây kia

6.  Để thu hoạch kết quả tốt trong việc trồng tỉa, mỗi Thiền sinh phải nỗ lực và tận tâm săn sóc

trong công tác của mình.

7. Mỗi Thiền sinh phải tự gìn giữ những công cụ, vật, liệu, tài sản của viện không được hoang

phí.

8.  Hoa màu thu hoạch được do Thiền viện tự tay trồng tỉa, hoặc của chung, muốn tặng biếu ai

phải qua sự chỉ định của thầy Trụ Trì, phó Trụ Trì và Tri sự, các Thiền sinh không được tự ý

tặng biếu.

9.  Nếu Ni chúng có nhờ mượn Thiền sinh làm việc gì tất cả đều trực tiếp với thầy Tri Sự, tùy

thầy Tri Sự chỉ định người làm, Thiền sinh không được tự ý hứa nhận.

10.  Thư từ và các sáng tác, dịch thuật gởi đi hay đưa đến đều phải trình qua Hòa Thượng Viện

chủ xem.

11. Thiền sinh trong Thiền viện . Muốn mượn tài liệu, sách vở v.v… của Ni chúng trong Thiền

viện Ni phải thông qua Ban Lãnh Đạo. Không được mượn trả trực tiếp, và ngược lại cũng thế.

  MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM 

            1. Nghĩ đến thân chẳng cầu không bệnh, thân không bệnh thì tham dục dễ sanh.

            2.  Ở đời chẳng mong không nạn, không nạn thì kiêu sa ắt khởi.

            3.  Tham cứu tâm chẳng cầu không chướng, tâm không chướng thì việc học không có thứ lớp.

            4.  Lập hạnh chẳng mong không ma, không ma thì thệ nguyện chẳng vững.

            5.  Sắp đặt việc chẳng cầu dễ thành, việc dễ thành thì chí còn khinh mạn.

            6.  Tình nghĩa qua lại chẳng mong lợi mình, lợi mình thì kém tổn đạo nghĩa.

            7.  Đối tiếp người chẳng cầu nuông chìu, được nuông chìu thì tâm sanh kiêu căng.

            8.  Thi ân bố đức chẳng mong đền đáp, mong đền đáp là ý còn mưu toan.

            9.  Thấy lợi, chẳng cầu mình được, được lợi thì tâm si dễ động.

           10. Bị hàm oan, chẳng cầu minh oan, minh oan thì oán hận càng sanh.

 Thế nên thánh nhân lập bày giáo hóa :

  • Lấy bệnh khổ, làm thuốc hay 

  • Lấy hoạn nạn, làm tiêu dao.

  • Lấy chướng ngại, làm giải thoát

  • Lấy chúng ma, làm bạn pháp

  • Lấy khó khăn, làm thành công

  • Lấy kẻ giao hữu tệ bạc, làm sự giúp ích

  • Lấy người nghịch, làm vường đẹp

  • Lấy bố đức, làm dép rách

  • Lấy lợi sơ sài, làm giàu sang

  • Lấy oan ức, làm cửa hạnh
     

            Như thế ở chỗ ngại biến thành thông, mong được thông trở thành ngại.

 Vì thế, Như Lai ở trong chướng ngại được đạo Bồ Đề. Đến như bọn ông Ương Quật Ma La và Đề Bà Đạt

Đa, đều đến làm hại, mà Đức Phật vẫn thọ ký cho họ về sau vẫn thành Phật. Đâu chẳng phải họ là nghịch

mà ta vẫn thuận, kia là hoại mà ta lại thành.

Song đời nay, người thế tục học đạo, nếu trước không ở chỗ ngại, khi chướng ngại đến khó bề dẹp nỗi,

khiến của báu Pháp Vương do đó mà mất. Đâu chẳng tiết ư ! Đâu chẳng tiết ư ! !

Các bài khác...