headertvtc new


   Hôm nay Thứ tư, 17/04/2024 - Ngày 9 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Mục Kiền Liên

 

MỤC KIỀN LIÊN

THẦN THÔNG ĐỆ NHẤT

1- NGƯỜI THỊ TÙNG ĐẦU TIÊN

Hiện nay, trong mỗi đại hùng bảo điện, chúng ta thường tôn trí thánh tượng Phật-đà ngay chính giữa, bên tả là ngài A-nan, bên hữu là ngài Ca-diếp, nhưng vào thời tối sơ của đức Phật mới hoằng pháp, sự tình không phải là như vậy.

Trong hai năm đầu đức Thế Tôn thành đạo, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên quy y Phật. Từ khi ấy, Mục-kiền-liên luôn luôn ở bên tả của Ngài, Xá-lợi-phất bên hữu. Trừ những lúc bận hoằng hóa phương xa, bình thường hai vị không hề rời Phật nửa bước.

Xá-lợi-phất theo Phật xuất gia, nửa tháng sau mới dứt hết kiết sử, đoạn trừ phiền não, nhưng Mục-kiền-liên chỉ trong vòng bảy hôm liền hết các lậu hoặc, hiện sức thần thông, chứng quả A-la-hán.

Mục-kiền-liên dáng người cao lớn, mặt vuông tai dài, biểu lộ tính cứng rắn. Tôn giả rất lạc quan, dũng cảm, thường vì chánh nghĩa đả phá việc bất bình.

Trong hàng Tỳ-kheo đệ tử Phật, có nhiều vị thần thông phi thường, nhưng Mục-kiền-liên được danh hiệu Thần thông đệ nhất là vì trong lúc hóa đạo, Ngài ưa hiện thần thông. Đức Phật tuy không cho phép các đệ tử hiển phép lạ mê hoặc người nhưng riêng đối với Mục-kiền-liên thì Ngài thường khen ngợi.

2- NGUYÊN NHÂN PHÁT NGUYỆN CẦU THẦN THÔNG

Vì sao Mục-kiền-liên có thần thông? Chuyện này có liên quan đến một đoạn nhân duyên vi diệu của Ngài trong quá khứ.

Thời quá khứ, Mục-kiền-liên làm nghề đánh cá, thường ở bờ biển lưới tôm chài cá đem đi bán, sinh sống bằng nghề ấy qua ngày. Cho đến một hôm thiện lương phát hiện, thức tỉnh rằng nghề của mình là một nghiệp khổ to lớn. Tuy sống đời này nhưng cần phải tạo công đức cho đời sau, và do ý niệm hướng thiện ấy chàng ngư phủ quyết định đổi nghề. Chẳng bao lâu chàng thấy trong thành có một vị Bích-chi Phật, mỗi ngày đi ngang qua đường với oai nghi đi đứng tĩnh lặng, phong độ thật trang nghiêm đáng kính, bèn thỉnh về nhà cúng dường thịnh soạn. Nhưng vị Bích-chi Phật ấy tuy bên ngoài hiện thần thông mà không khéo thuyết pháp, Ngài chỉ dùng thần thông hóa độ, ngoài ra không có pháp môn khác. Sau khi thọ thực xong, Ngài bay lên hư không đi tới đi lui, lên xuống như thường. Ngư phủ thấy rồi trong lòng rất vui mừng bèn phát nguyện đời sau xin được thần thông.

Có chí thì nên, do nhân duyên đó, tôn giả Mục-kiền-liên đời nay quy y Phật và được xưng là Thần thông đệ nhất .

3- CẦU BÁU ĐƯA PHẬT ĐÀ

Thần thông của Mục-kiền-liên tai nghe thấu mọi âm thanh xa gần, mắt thấy hết sự vật không bị trở ngại, không kể đường dài ngắn, vừa nghe liền hiện thân, Tôn giả thường dùng phép lạ ấy để trợ Phật giáo hóa.

Một hôm dân chúng trong kinh thành Xá-vệ tổ chức buổi yến tiệc cúng dường chín mươi sáu giáo phái xuất gia, và mời vua Ba-tư-nặc, thái tử, quần thần cùng đến dự. Bàn tiệc dọn tại quảng trường đối diện bờ sông A-kỳ, Mục-kiền-liên là vị khách đến đầu tiên. Giây lát sau chúng ngoại đạo tấp nập đến thọ cúng, ai cũng muốn đến trước để chiếm một chỗ ngồi tốt nhất. Nhưng hôm đó, nước sông A-kỳ bỗng dâng cao không thể qua được. Lúc ấy, Mục-kiền-liên nhìn xa xa thấy đức Phật thống lãnh đại chúng oai nghi an tường đi đến, Ngài lập tức hóa một chiếc cầu trân bảo bắc ngang sông, giăng mắc hương hoa, dùng thất bảo nghiêm sức để đón Phật.

Lúc đức Thế Tôn chưa đến, chúng ngoại đạo dừng bên bờ thấy nước mênh mông bèn nghĩ thầm: “Hôm nay nước dâng cao quá, chúng ta không thể sang bên kia thọ cúng. Thôi hãy đợi Phật và các đệ tử đến xem Ngài có biện pháp gì chăng?” Còn đang tính toán, chiếc cầu báu vừa hoàn thành, bọn họ vừa thấy rất vui mừng, reo hò inh ỏi, tranh nhau nói:

- Sa-môn đến chậm rồi! Trời cho cây cầu này đưa chúng ta qua trước, chúng ta sẽ là thượng khách chiếm ghế chủ tịch.

Ngoại đạo nói xong chen nhau lên cầu. Đến giữa cầu bỗng nghe một tiếng nổ lớn, chiếc cầu gãy ngang, mọi người rơi xuống nước lủm ngủm, tiếng kêu cứu chấn động một vùng.

Khi đức Phật đến, cầu trở lại như cũ, Phật và các Tỳ-kheo đi qua, thấy các ngoại đạo đang vùng vẫy loi ngoi dưới nước, Ngài động lòng từ bi vận dụng thần lực cứu hết mọi người đem lên, cho đi theo sau đức Phật, sau đó mới được yên ổn theo thứ tự mà qua sông, rồi cầu cũng biến mất.

Trong khi đức Phật và các đệ tử thọ thực, chúng ngoại đạo y phục ướt mem, phải ngồi phơi nắng hong khô. Sau đại hội, họ đều biết sức yếu hèn của mình không thể so sánh với quang minh rạng rỡ của đức Thế Tôn và chư đệ tử.

4- TRONG ĐỊNH THƯA HỎI

Một ngày nọ, đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn của nước Xá-vệ, Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất vâng lời Phật đến vườn trúc Ca-lan-đà thành Vương Xá lãnh đạo các Tỳ-kheo đi giáo hóa trong dân gian.

Hai vị ngụ trong một thiền phòng, đêm yên tĩnh, bốn bề không một tiếng động, ánh đèn trong phòng hòa cùng ánh trăng. Gần sáng, Xá-lợi-phất phá tan không khí trầm mặc, hỏi Mục-kiền-liên:

- Này Tôn giả! Cho phép tôi hỏi đường đột thế này, vậy chớ đêm nay Ngài có trụ tại chánh định tịch diệt hay không?

Mục-kiền-liên nhẹ nhàng hỏi lại:

- Vì sao Ngài hỏi tôi như thế?

- Vì lâu thật lâu, tôi không nghe hơi thở hô hấp của Ngài, cũng không thấy Ngài cử động, dường như không có mặt Tôn giả trong phòng này.

- Tôn giả Xá-lợi-phất! Đêm nay tôi vừa khởi lên một vấn đề cần thiết tinh tấn trên sự tu hành, nên tôi đến thỉnh ý Phật. Vừa rồi Ngài không nghe tiếng tăm tôi là vì tôi vừa ở bên Phật hỏi chuyện.

- Ngài nói sao khó hiểu quá, hiện giờ Phật đang ở vườn Kỳ-đà phương Bắc, còn chúng ta ở vườn Trúc phương Nam, hai nơi cách nhau rất xa, làm sao Tôn giả nói chuyện với Phật? Tôn giả dùng thần túc đến chỗ Phật? Hay đức Thế Tôn dùng thần túc đến đây?

- Không, chẳng phải vậy đâu – Mục-kiền-liên trả lời – Tôi không dùng thần túc đến nơi tòa Phật mà Phật cũng chẳng dùng thần túc đến chỗ chúng ta.

- Như vậy, rốt cuộc làm sao Tôn giả nói chuyện với đức Phật?

- Thưa tôn giả, chẳng có gì lạ lùng hết. Đức Thế Tôn có Thiên nhãn và Thiên nhĩ thông. Tôi và Tôn giả cũng có thần thông ấy, chỉ cần để tâm vận dụng, chúng ta đều có thể nói chuyện với đức Thế Tôn bất cứ lúc nào và ở đâu.

Xá-lợi-phất cũng biết vậy, nhưng Ngài luôn luôn có thái độ khiêm cung với bạn đồng trụ xứ. Nghe Mục-kiền-liên nói xong, Tôn giả rất hoan hỷ, liền khen:

- Tôn giả Mục-kiền-liên! Ngài thật có đại thần lực, đại công đức, tôi được làm bạn với Ngài thật vô cùng hân hạnh. Tôn giả như đỉnh núi nguy nga, tôi như tiểu thạch đứng bên núi, được ngồi đồng một tòa với tôn giả thật là nhân duyên hiếm có. Người nào được giao du với Tôn giả, cung kính cúng dường, nhất định được lợi ích tốt lành.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều là bạn cũ. Hai vị cùng tôn kính nhau, khen ngợi nhau từ thỉ chí chung, đạo tình thâm trọng.

5- AI LÀ THẦN THÔNG ĐỆ NHẤT

Nói về tôn giả Xá-lợi-phất, lão bằng hữu của Mục-kiền-liên, không những có đại Trí tuệ mà cũng có đại thần thông. Đầu tiên, khi Tôn giả đến thành Xá-vệ làm giám đốc cho công trình Kỳ Viên, đã cùng với Lao-độ-sai, thủ lãnh ngoại đạo, thi triển mười tám phép thần biến và được thắng lợi. Xá-lợi-phất đã lưu lại ảnh hưởng trong dân chúng thành Xá-vệ là một vị Tôn giả đại thần thông, đại Trí tuệ.

Một hôm, nhằm ngày rằm Phật thuyết giới cho chư vị Tỳ-kheo bên mé ao A-nậu-đạt; trong tòa thiếu Xá-lợi-phất, Phật bảo Mục-kiền-liên:

- Mục-kiền-liên! Ông đến thành Xá-vệ mời Xá-lợi-phất về đây. Hãy nói đây là ý của ta.

Mục-kiền-liên vâng dạ ra đi, đến bên tòa Xá-lợi-phất liền nói:

- Tôn giả! Đức Thế Tôn bảo tôi mời Ngài đến ao A-nậu-đạt, nơi thuyết giới hiện tại.

Xá-lợi-phất nghe nói lộ vẻ hoan hỷ:

- Đa tạ huynh đã truyền Thánh ý đến cho tôi, chúng ta đi ngay thôi, nhưng tôi với Tôn giả làm một cuộc du hí nhé.

- Du hí kiểu nào? – Mục-kiền-liên nghi ngờ nhìn Xá-lợi-phất.

- Tôn giả là một bậc trưởng lão đại thần thông, đây là một sợi dải áo, tôn giả thử đem nó kết thành một cây cổ thụ!

Xá-lợi-phất vừa nói xong, liền ném sợi dây ra, Mục-kiền-liên đưa tay bắt lấy, nhưng sợi dây không nhúc nhích. Tôn giả vận dụng hết sức thần thông kéo sợi dây đến nỗi chấn động đại địa. Xá-lợi-phất mau mau đem sợi dây quấn quanh núi Tu-di, Mục-kiền-liên liền nhấc núi Tu-di lên, Xá-lợi-phất bèn đem dây cột vào tòa sư tử của đức Phật. Mục-kiền-liên một lần nữa dùng hết thần lực cũng không lay động được nó. Xá-lợi-phất cười nói với Mục-kiền-liên:

- Tôn giả! Chỗ học và chỗ chứng của chúng ta sánh với vạn đức vạn năng của Phật-đà cách xa trời vực. Thần lực của chúng ta có thể dời núi Tu-di, rung chuyển thiên địa, nhưng pháp tòa của Phật không lay động mảy may. Tôi đâm ra nghi ngờ thần lực của tôi, nên mới mời Ngài thí nghiệm. Thôi bây giờ chúng ta mau đến bái kiến đức Thế Tôn, mời Ngài đi trước, tôi theo sau.

Mục-kiền-liên rất khâm phục lời nói của người đạo hữu thâm giao, gật đầu và dùng thần túc bay về ao A-nậu-đạt. Đến nơi đã thấy Xá-lợi-phất kiết già, ngồi bên cạnh đức Thế Tôn, Mục-kiền-liên đảnh lễ Phật xong, bèn hỏi Phật, đầy nghi ngờ:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ con mất hết thần túc thông rồi sao? Con từ tinh xá Kỳ Viên về đây trước Xá-lợi-phất, tại sao Tôn giả lại đến nơi trước con? Phật thường nói con thần thông đệ nhất, danh xưng đó con thiết tưởng tặng cho tôn giả Xá-lợi-phất mới phải.

Đức Phật từ bi an ủi:

- Mục-kiền-liên! Ông có đại thần lực, trừ ta ra không kém thua ai, ông chẳng hề thối thất thần thông, nhưng ông cần phải biết, Xá-lợi-phất là người đại Trí tuệ đấy!

Phật thuyết giới bên ao A-nậu-đạt xong dẫn các đệ tử trở về thành Xá-vệ. Tín chúng trong thành biết chuyện vừa rồi, ai nấy đều xôn xao bàn tán, nói rằng thần thông của Xá-lợi-phất hơn Mục-kiền-liên.

Mục-kiền-liên nghe tiếng bình phẩm ấy không hề cảm thấy bực bội. Tâm của Ngài rộng rãi và rất khiêm tốn, cho rằng Xá-lợi-phất xứng đáng hơn mình. Mọi người khen Xá-lợi-phất, điều đó vinh hạnh như khen ngợi chính Tôn giả.

Nhưng trong lòng Xá-lợi-phất không yên, Ngài cho điều đó có gì uẩn khúc với Mục-kiền-liên, Tôn giả bèn đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mục-kiền-liên có sức đại thần thông, đại công đức, hôm trước con đến ao A-nậu-đạt trước là vì con gấp rút muốn nghe Thế Tôn thuyết giới, tuy tôn giả Mục-kiền-liên vận dụng thần lực nhưng không nghĩ đến việc tranh thủ thời gian. Hôm nay, mọi người xôn xao bàn tán, nói con thần thông hơn Mục-kiền-liên, thật con không dám nhận. Xin đức Thế Tôn dùng phương tiện giải trừ lời phê bình bất công ấy.

Đức Phật nghe xong, từ hòa vi tiếu gật đầu, Ngài biết rõ hai vị này rất khiêm nhường đối với bạn.

Ngày khác, tại giảng đường sau một thời pháp, Phật bèn gọi Mục-kiền-liên:

- Mục-kiền-liên! Ông là đệ tử thần thông vô tỷ trong hàng đệ tử ta, hôm nay ông có thể ở trong đại chúng hiện thần lực để khai phát tín tâm cho hàng sơ học.

Mục-kiền-liên vâng lời Phật, liền từ tòa đứng dậy, một chân đạp trên địa cầu, một chân đạp cõi trời Phạm Thiên, khiến đại địa chấn động sáu cách, và ở trong không trung dùng Phạm âm thuyết pháp, khiến sáu mươi Tỳ-kheo được lậu tận ý giải.

Từ đó, đại chúng đều đồng thanh công nhận Mục-kiền-liên là thần thông đệ nhất .

6- DỜI NÚI ĐỘ PHẠM CHÍ

Ấn Độ thời Phật, phần đông ngoại đạo không tin theo Phật pháp lại có ngũ thông. Đáng tiếc họ không thấu rõ chân lý, không tu đức hạnh từ bi Trí tuệ, cho nên không thoát sanh tử, trở lại trầm luân trong sáu nẻo.

Đối với ngoại đạo thần thông này, dùng chính sở trường của họ để độ họ, Phật thường sai Mục-kiền-liên trong việc hóa độ chúng ngoại đạo Phạm chí.

Một hôm, Phật bảo tôn giả Mục-kiền-liên:

- Mục-kiền-liên! Tại biên giới Ấn Độ, có một nước lớn, vua và thần dân đều không biết Phật pháp, thờ phụng Phạm chí ngoại đạo, có nhiều Phạm chí đắc thần thông, họ dời núi lấp sông, phân thân biến hóa dễ dàng. Ông hãy đến đó, phương tiện vận dụng oai thần, khiến họ tin tưởng Phật pháp, bỏ tà về chánh, sửa đổi mê lầm.

Tôn giả vâng lời, liền bay lên không trung đến nước ấy, nhìn xuống thấy một ngọn núi lớn có rất nhiều ngoại đạo bao quanh, xem tình hình này dường như họ đang dùng đạo lực di động trái núi kia.

Mục-kiền-liên liền đáp xuống đỉnh núi, đứng trụ bộ trên ấy, thân hình cao thấu hư không, ngọn núi kia chẳng lay động mảy may. Chúng ngoại đạo hoảng kinh bàn tán:

- Núi này đã dời lên, ai lại làm cho nó cứng ngắc, không nhúc nhích như vầy. Có lẽ nào trong chúng ta có người không thanh tịnh sao?

Vừa nói xong, bỗng ngó lên thấy ngài Mục-kiền-liên đang đứng trên đỉnh núi cao vòi vọi, họ bèn hét lên:

- Tên kia! Mi là ai? Sao dám đến đây lộng hành? Ngọn núi này làm trở ngại giao thông, nhà vua ra lệnh chúng ta dẹp nó đi, vì dân trừ hoạn nạn, tại sao mi lại đè nó đứng yên, không cho di chuyển?

Mục-kiền-liên cười nói:

- Rõ ràng là tôi đứng giữa hư không, ai đè trái núi của các ông làm chi?

Ngoại đạo lại huy động hết đạo lực, ba lần muốn dời núi mà hòn núi vẫn y nguyên như cũ.

Đang lúc ngoại đạo cảm thấy hết phương cách, kinh sợ hoang mang, Mục-kiền-liên lớn tiếng kêu:

- Các Phạm chí! Định thần xem đây, núi kia sẽ biến mất.

Mục-kiền-liên nói xong, hòn núi cao ngất, hùng vĩ kia tức khắc biến thành bình địa.

Các ngoại đạo cúi đầu nói:

- Đại đức từ đâu đến? Nếu chẳng phải là bậc Trí tuệ sáng suốt, đạo đức sâu dày không thể được như vậy. Xin Ngài thâu nhận chúng tôi làm đệ tử, chỉ dạy bờ mê cho chúng tôi.

Mục-kiền-liên từ trên không hạ xuống, nói:

- Các ông có chí tâm thành hối cải, tôi biết đó không phải là lời dối gạt. Nhưng tôi nói thật, nếu các ông muốn bỏ tối cầu sáng, bỏ ác làm lành, tôi còn có bậc tôn sư, đức Phật-đà Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật là bậc trời trong loài trời, bậc Thánh trong các Thánh, đầy đủ Nhất thiết trí, vạn đức vạn năng. Các ông hãy theo tôi đến chỗ Phật quy y, đức Phật nhất định từ bi nhiếp thọ.

Các Phạm chí vui mừng nhảy nhót, hỏi thăm:

- Giáo pháp của Phật chẳng lẽ hơn lão sư ư?

Mục-kiền-liên trang nghiêm nói:

- Đức Phật như núi Tu-di, tôi chỉ như hạt cải, hạt cải không thể so sánh với núi Tu-di. Phật-đà như biển lớn, tôi chỉ như dòng nước nhỏ, dòng nước không thể sánh với biển cả. Phật ra đời khó gặp, các ông quy y Phật mới có thể được cứu thoát.

Các Phạm chí nghe xong vui vẻ, đều theo Mục-kiền-liên đến chỗ Phật quy y thọ giáo.

Tôn giả Mục-kiền-liên thường dùng thần thông chiết phục ngoại đạo, khiến khởi tâm quy hướng Phật pháp. Ngài là người có nhiều biện pháp trong việc hàng phục ngoại đạo.

7- HÀNG PHỤC QUỶ ÁC

Tôn giả Mục-kiền-liên tuy hay hàng phục ác ma ngoại đạo, nhưng bọn chúng cũng thường tìm cách chọc ghẹo Ngài.

Một phen, Mục-kiền-liên vâng lời Phật đơn thân đến nước Bạt-già giáo hóa. Có một tệ quỷ thấy tôn giả đang tản bộ trên đường, hắn bèn dùng thần thông chui vào bụng tôn giả. Tôn giả cảm thấy đau nhói nơi bụng, dường như có vật gì như cái chén lợn cợn trong đó, mà lại kêu rầm rầm như sấm. Tôn giả liền dừng bước, trở về thất tịnh tọa tư duy, biết đây là tệ quỷ khiêu khích mình, bèn nói:

- Ác ma! Mau mau đi ra, không được xâm phạm đệ tử Phật. Mi chẳng thể làm tổn hại đức Phật và đệ tử Ngài, trừ những đệ tử nghiệp lực đến thời, nếu không mi vĩnh viễn chẳng làm gì được.

Ác ma nghĩ thầm:

- Lạ thật! Hình dạng ta ra sao ngay cả Phật còn không biết, Mục-kiền-liên tuy có thần thông, làm sao biết được?

Tôn giả lại nói:

- Ác ma! Mi đừng lấy làm lạ. Ta biết trong bụng mi đang nghĩ rằng Phật-đà chẳng biết hình thù mi ra sao, Mục-kiền-liên tuy có thần thông làm sao lại biết.

Tệ quỷ nghe rồi kinh hãi, liền biến thành nước miếng vọt ra, từ đó chẳng dám trêu chọc đến Tôn giả.

Thần thông của Mục-kiền-liên khiến người tin Phật khâm phục, và ma ngoại sợ hãi.

8- SẮC ĐẸP KHÔNG CỰ NỔI THẦN THÔNG

Có thần thông như Mục-kiền-liên, chẳng những không bị ác quỷ gia hại mà sắc đẹp cũng không lay động đạo tâm.

Một hôm, Tôn giả đi khất thực trở về, ngang qua một khu vườn, trong đó có một người đàn bà trung niên đang chờ Ngài. Người này tuy khoảng ba mươi tuổi, nhưng thời gian không làm giảm vẻ đẹp. Đôi mắt kiều mị, hình dong yểu điệu rất hấp dẫn nam nhi.

Nàng thấy Mục-kiền-liên sắp đến gần bèn đứng dậy cúi chào:

- Tôn giả! Ngài có bận đi đâu không? Ngài có thể dừng chân nói chuyện với em không ạ?

Mục-kiền-liên dừng bước, chú ý nhìn và không những Ngài thấy dung mạo thanh lịch của cô ta, mà còn biết rõ bên trong tâm cô ta đang có ý đồ gì.

Tôn giả không động trước thinh sắc, oai nghiêm nói:

- Thật đáng thương cho cô! Cô phải chịu những điều ô nhục. Tuy được chút đỉnh tiền bạc mà lương tâm mờ ám, nghe lời xúi sử của ngoại đạo, tưởng rằng đối trước ta có thể bày âm mưu phi pháp!

Cô nàng nghe nói kinh hoảng, nhẹ giọng:

- Tôn giả! Ông…ông…tại sao ông nói như vậy?

Mục-kiền-liên oai nghiêm như một ngọn núi:

- Cô không thể che giấu tội lỗi của mình. Cô đến đây với ý định gì tôi vừa nhìn qua biết liền. Cô mê muội theo sắc đẹp hư vọng, sắc đẹp giúp cô tăng trưởng tội ác, giống như voi già sa lầy, càng cựa quậy càng lún sâu thôi.

- Tôn giả! Ngài đã biết rõ tâm tôi, tôi cũng biết không thể qua mắt Ngài. Tôi sớm nghe danh Ngài là vị đệ tử thần thông đệ nhất của Phật, tôi không tin rằng thần thông có thể vượt qua sắc đẹp. Tôi biết tôi là một kẻ tội lỗi, tôi cũng tưởng đến việc hướng thiện nhưng rất đỗi tuyệt vọng. Tôi nghĩ tôi là một kẻ không thể cứu vớt, có một quá khứ ghê rợn, mai sau chắc chắn sẽ chịu quả báo đáng sợ.

Mục-kiền-liên an ủi:

- Cô không nên tự làm khổ mình, cũng đừng thất vọng. Tội nghiệp dù nặng đến đâu chỉ cần một phen sám hối thì đều có thể cứu vãn, y phục dơ có thể giặt giũ, thân thể ô uế có thể dùng nước tẩy trừ, tâm không thanh tịnh có thể dùng Phật pháp rửa sạch. Trăm dòng sông nhớp nhúa một phen chảy vào biển cả, nước biển lớn thảy đều làm sạch nước trăm sông. Lời dạy của Thế Tôn ta đủ sức khiến thanh tịnh lòng người ô uế, có thể cho sám hối những tội nghiệp quá khứ.

Nghe tôn giả nói như vậy, cô kia rất mừng rỡ, mắt đầy hy vọng nói:

- Tôn giả, giáo thị của đức Phật từ bi vĩ đại đến vậy ư? Quá khứ tôi rất là tội lỗi, tôi chỉ gặp toàn những điều bất hạnh, tôi mà nói ra đây, Tôn giả chắc sẽ bịt tai ngoảnh mặt.

- Chẳng có gì quan hệ, cứ nói ra cũng tốt. Cô tên gì?

- Thưa, tôi tên Liên Hoa Sắc, là con gái một nhà trưởng giả thành Đức-xoa-thi-la, khi tôi được mười sáu tuổi, phụ mẫu thành lập gia thất cho tôi, nhưng chẳng bao lâu cha tôi qua đời, bà mẹ góa bụa của tôi bèn tư thông với chồng tôi, biết việc này tôi rất đau lòng. Lúc ấy tôi đã có một đứa con gái, bèn bỏ nó ra đi. Sau đó tôi tái giá với người khác. Có một lần, người chồng sau này đi xa buôn bán, khi chàng từ Đức-xoa-thi-la trở về, lén tôi lấy một ngàn lượng vàng mua tiểu thiếp. Ban đầu y giấu nhẹm không cho tôi hay, đưa tiểu thiếp gởi nhà bạn. Sau đó tôi biết được nóng nảy muốn coi mặt tiểu thiếp đó là người nào mà dám đoạt chồng tôi. Thiệt là, thưa Tôn giả, không thấy thì thôi, thấy rồi tôi té xỉu tại chỗ, người đó đâu phải ai xa lạ, chính là con gái của đời chồng trước.
Liên Hoa Sắc nói đến đó, khóc không ra tiếng. Mục-kiền-liên bèn an ủi:

- Liên Hoa Sắc! Cô không nên thương tâm quá đỗi, người biết rõ quá khứ vị lai thì xem đó chỉ là một sự luân hồi nhân quả. Nói thật mà nghe, đời người là một bể tội lỗi. Rồi sau thế nào?

- Làm sao tôi có thể nhẫn nhục được đối với nỗi khổ đau đó? Nghĩ đến ban đầu thì mẹ đoạt chồng mình, bây giờ con mình lại tranh chung trượng phu với mình. Tôi còn mặt mũi nào ở đời? Tôi bỏ nhà ra đi, tôi chán ghét thế gian, chán ghét mọi người. Tôi làm kẻ mua vui cho thiên hạ. Tôi muốn đùa cợt thế nhân, tôi phát triển mọi sinh hoạt tội lỗi của mình. Việc gì tôi cũng làm được miễn có tiền. Tôn giả đã biết tại sao tôi đến đây khiêu khích Ngài, may mà Tôn giả có đại thần lực, bây giờ không biết tôi phải sám hối như thế nào?

Mục-kiền-liên nghe Liên Hoa Sắc kể hết sự tình, không hề khởi tâm khinh khi, trái lại Tôn giả biết trong tâm Liên Hoa Sắc rất chân thành, rất lương thiện. Ngài dùng lời từ hòa đến gần bên an ủi:

- Liên Hoa Sắc! Thân thế của cô thật đáng thương, cô nên theo lời dạy của đức Phật mà sửa đổi, thời tiết nhân duyên đã đến, cô hãy theo tôi ra mắt Phật.
Liên Hoa Sắc rất mừng rỡ. Sở dĩ cô được cứu độ, chuyển họa thành phước đều nhờ sức thần thông, phương tiện thiện xảo của Mục-kiền-liên.

9- THỬ NGHE TIẾNG PHẬT XA GẦN

Trong Tăng đoàn, Mục-kiền-liên là người sống động, chuyện người khác làm không được Ngài đều làm xong, chỗ nào người khác không đến được Ngài đều có thể đến.

Một hôm Phật thuyết pháp tại giảng đường Trúc Lâm tinh xá, Mục-kiền-liên ngồi thiền trong tịnh thất không đi nghe giảng, nhưng tiếng thuyết pháp của Phật như sấm rền bên tai. Ngài lấy làm lạ, ở một nơi cách xa Phật như thế mà vẫn nghe tiếng, bèn nảy ra ý định dọ thử xem pháp âm của Phật còn xa đến đâu. Ngài vận dụng thần túc bay qua mười ức cõi Phật, đến một quốc độ, nơi ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương là giáo chủ và đang thuyết pháp. Mục-kiền-liên cũng thường du hành đến cõi này cũng như một khách rong chơi giàu có lịch lãm, đến đâu cũng đều xem là gia hương cố quốc.

Bây giờ đến đây, thấy đức Thế Tự Tại Vương đang thuyết pháp, Tôn giả rất hoan hỷ liền nhanh tay lẹ chân tìm chỗ ngồi trong pháp hội. Nói đến chỗ này thật là bất khả tư nghì, Mục-kiền-liên chẳng những nghe tiếng Phật của quốc độ này, mà cả tiếng của đức Thích-ca ở cõi Ta-bà cũng nghe luôn.

Đức Thế Tự Tại Vương thuyết pháp xong, một vị Bồ-tát hướng về Phật đảnh lễ và chỉ Mục-kiền-liên nói:

- Như-Lai! Trong lúc Ngài thuyết pháp, chẳng biết từ đâu bò đến một con sâu lớn trông thật quái dị, chúng con muốn đuổi nó đi .

Đức Phật vội ngăn:

- Đừng nói thế! Đó là Mục-kiền-liên, đệ tử thần thông đệ nhất của đức Phật Thích-ca ở cõi Ta-bà!

- Sao lại nhỏ bé như vậy?

Các Bồ-tát đều thưa hỏi. Nguyên lai, thân thể của chư Bồ-tát và chúng sanh trong cõi nước Phật đây to lớn gấp trăm ngàn lần người cõi Ta-bà, chẳng lạ gì họ ngạc nhiên khi thấy Mục-kiền-liên.

Đức Thế Tự Tại Vương giải thích:

- Các ông đừng khinh thị Tôn giả này. Ông ấy có đại thần lực, đại oai đức. Ông ấy hành hóa tự tại, dạo chơi các quốc độ. Chẳng qua thân thể thấp bé là vì chúng sanh mỗi quốc độ nghiệp lực chẳng đồng.

Đức Phật nói xong từ hòa nhìn Mục-kiền-liên:

- Tôn giả! Ông từ phương khác đến, có thể đối với chúng Bồ-tát đệ tử ta, hiện các thần thông để trừ nghi hoặc của họ.

Mục-kiền-liên bèn thừa oai thần Phật, hóa hiện các thứ thần kỳ. Chúng Bồ-tát thấy rồi đều sanh lòng cung kính.

Mục-kiền-liên hiện phép lạ xong, trở về chỗ ngồi. Đức Phật hỏi:

- Tôn giả! Ông đến quốc độ ta là muốn thử nghe tiếng thuyết pháp của Phật Thích-ca xa bao nhiêu phải không?

- Thưa phải, quả thật đệ tử có dụng tâm đó – Mục-kiền-liên cung kính đảnh lễ đáp.

- Tôn giả! Ông không nên nghĩ như vậy. Oai lực của chư Phật hàng phàm phu và nhị thừa không thể biết hết. Thanh âm thuyết pháp của chư Phật biến khắp tất cả hư không, cảnh giới các căn phan duyên của chúng sanh thì có xa gần, mà dùng tâm phân biệt không thể thử biết được âm thanh Phật.

Lời khai thị của đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, Mục-kiền-liên nghe xong rất hổ thẹn. Từ đó về sau, Tôn giả vẫn giữ vẻ linh hoạt nhưng không dám thử thăm dò Phật đức và Phật âm nữa.

10- CHÚNG QUỶ HỎI VỀ NHÂN DUYÊN NGHIỆP BÁO

Tôn giả Mục-kiền-liên không những thường du hành các cõi Phật, mà còn thừa thần lực xuống địa ngục quan sát chúng sanh thọ quả báo.

Một hôm, Tôn giả hành khước bên bờ sông Hằng, lúc ấy ánh nắng nhạt dần, nhạt dần như rút theo con nước, màu hoàng hôn hoang vắng. Tôn giả thấy ban đêm đi hành hóa không tiện, bèn ngồi tịnh lự bên bờ sông.

Gió chiều nhẹ thổi, không trung lác đác vài vì sao. Bên bờ sông Hằng, các loài ngạ quỷ lắm phen tụ tập muốn tìm nước uống để trừ đói khát nhưng gặp phải một con quỷ hung ác giữ mé sông, tay cầm gậy sắt xua đuổi, do đó các quỷ đói không dám đến gần bờ nước. Mục-kiền-liên ngồi ngay thẳng chánh niệm, thấy kcác loại quỷ thọ tội không đồng, bèn gọi chúng lại. Nhân cơ hội ấy chúng quỷ hỏi Ngài về nhân duyên tội nghiệp.

Quỷ thứ nhất hỏi:

- Tôn giả! Đời trước chúng tôi làm người, nay bị đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ đói khát, nghe nói nước sông Hằng trong mát, mà khi đến lấy nước uống, nước liền nóng sôi, chỉ cần hớp một miếng lục phủ ngũ tạng liền cháy tiêu, còn bị quỷ giữ nước sông cầm gậy đánh đuổi. Xin hỏi Tôn giả, chúng tôi do nghiệp gì mà thọ khổ báo này?

Mục-kiền-liên dùng sức định thần thông quan sát nhân quả ba đời, bèn nói với nó:

- Đời trước ngươi làm thầy toán số, khi xem tướng kiết hung cho người, nói dối nhiều hơn nói thật, tùy ý khen chê, tự xưng mình thông suốt mà thật là dối láo, vì muốn cầu lợi dưỡng, không thương người mê muội, mới thọ nghiệp báo như vậy.

Quỷ thứ hai hỏi:

- Tôn giả! Tôi thường bị một con chó lớn hung dữ nhai nuốt thân thể, ăn hết thịt xong, một cơn gió thổi qua bộ xương, lại sống trở lại. Chẳng biết nhân duyên gì khiến tôi chịu khổ báo này?

- Đời trước ngươi giết heo, dê, gà, vịt cúng tế trời thần nên chịu quả báo ấy.

- Tôn giả! – Quỷ thứ ba hỏi? – Tôi thì bụng to như cái lu, tay chân cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thức ăn ngon mà chẳng thể ăn được, chẳng biết nhân duyên gì?

- Ngươi đời trước làm quan tự thị giàu mạnh, tung hoành theo ý thích, khinh khi người, tài sản người do mồ hôi nước mắt tạo ra, ngươi ỷ mạnh chiếm đoạt nên nay phải chịu khổ báo.

Quỷ thứ tư:

- Tôn giả! Lưỡi tôi le dài khắp thân, mà máu huyết cứ vọt ngược từ dưới lên trên khiến đầu to bằng cái đấu lớn. Mỗi khi huyết quản sắp đứt, mệnh như chỉ mành, chẳng biết nhân duyên gì thọ khổ báo này?

- Ngươi đời trước ưa nói chuyện thị phi, tốt xấu của người, mỗi lời nói ra không lợi ích cho chúng sanh, nếu có lời gì đều làm tăng khổ não cho người, nên nay mới chịu khổ như thế.

Mỗi ngạ quỷ lần lượt thưa hỏi tội nghiệp đã tạo ở đời trước, nhân duyên của quả báo đời nay, tôn giả đều mỗi mỗi trả lời. Thần thông của tôn giả thật là lên trời xuống đất tự tại vậy.

11- DO LAI CỦA VU LAN BỒN

Tôn giả Mục-kiền-liên dùng Thiên nhãn thông biết nhân quả báo ứng của loài quỷ, hốt nhiên nhớ đến mẫu thân quá cố, Ngài bèn vận dụng thần lực quan sát, thấy vong mẫu đang đọa trong ngạ quỷ chịu nhiều đau đớn, cuống họng nhỏ như cây kim, chỉ còn da bọc xương. Mục-kiền-liên thấy tình trạng ấy, động lòng hiếu thảo, không ngăn được nỗi thương cảm vạn phần, bèn dùng bình bát đựng đầy cơm, mượn sức thần đem đến trước lão mẫu, nhưng mẹ Ngài ôm bát cơm chưa kịp đưa vào miệng, cơm trong tay đã hóa thành lửa đỏ chẳng thể nuốt trôi. Mục-kiền-liên thấy vậy buồn bã rơi lệ nghĩ mình bất lực. Ngài biết được nghiệp quả của chúng ngạ quỷ, nhưng không thể biết mẫu thân do nhân duyên nghiệp báo gì mà chịu khổ sở như vậy. Ngài mang tâm tình trân trọng, mau mau đến trước Phật bẩm bạch:

- Phật-đà! Hôm nay đệ tử dùng thần thông thấy mẫu thân đang bị đọa vào ngạ quỷ, chịu nhiều khổ não, thức ăn biến thành lửa đỏ, chẳng biết do nhân duyên gì? Thần thông của đệ tử có thể quan sát thấu đáo nhân duyên tội báo của chúng quỷ, vì sao đối vong mẫu lại chẳng biết được? Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy.

Đức Thế Tôn lộ vẻ lân mẫn đáp rằng:

- Mục-kiền-liên! Mẹ ông lúc sanh tiền báng Phật mắng Tăng, không tin nhân quả, tham sân tà ác, dối gạt mọi người. Do đó mới thọ khổ báo này. Ông vì mẫu tử tình thâm, thần thông bị thần tình che lấp nên không biết được!

- Ngài có diệu pháp gì để cứu mẫu thân của đệ tử thoát khổ ngạ quỷ? – Mục-kiền-liên hướng về đức Phật ai cầu.

- Mục-kiền-liên! Tội báo của mẹ ông cấu kết sâu dày, không thể dùng lực lượng một cá nhân mà cứu bạt được. Hiếu đạo của ông tuy cảm động trời đất, nhưng thiên địa thần kỳ đối với người đọa lạc vì phỉ báng Tam bảo không thể làm gì được. Hiện tại ông chỉ nương sức oai thần của thập phương Tăng chúng mới giúp mẹ ông thoát khổ ngạ quỷ. Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ tự tứ của chư Tăng, ngày đó những người làm con nên vì cha mẹ bảy đời và cha mẹ hiện tại đang ở trong chốn nguy nan, sửa soạn trăm thức ăn ngon, quả vật tươi tốt nhất thế gian, đặt trong mâm đầy để cúng dường chư Đại đức Tăng mười phương. Nhân vì ngày ấy là ngày tự tứ của chư Tăng, tất cả Thánh chúng hoặc tọa thiền ở rừng núi bên dòng nước hoặc đắc tứ quả A-la-hán, hoặc kinh hành dưới cội cây, hoặc là bậc được lục thông đi giáo hóa, cho đến những Bồ-tát trong mười phương hiện làm Tỳ-kheo, đều đồng nhất tâm thọ thực, do vì chư Thánh chúng đều đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, đức độ rộng sâu như biển, bất khả tư nghì. Nếu ai hay cúng dường các vị Tăng ngày Tự tứ thì cha mẹ hiện đời và lục thân quyến thuộc nhất định ra khỏi đường khổ, liền được giải thoát, y thực tự nhiên. Nếu cha mẹ còn sống thì phước lạc trăm năm, mọi việc đều an lành thuận hảo. Đó thật là diệu pháp để cầu siêu cứu bạt.

Mục-kiền-liên nghe Phật nói, hoan hỷ vâng làm. Ngày chúng Tăng tự tứ làm lễ cúng dường đại chúng Thánh Tăng, ngày đó mẹ Ngài thoát ly khổ ngạ quỷ.

Mục-kiền-liên rất cảm kích ân đức Phật, bèn tán thán công đức Tam bảo, khuyến khích thế gian làm theo pháp Vu Lan Bồn, cúng Phật cập Tăng để báo đáp ơn huệ sanh dưỡng nuôi nấng thương yêu vỗ về của song thân. Cử hành pháp hội Vu Lan, đó vốn là lợi ích cho những ai cùng khổ tâm như Mục-kiền-liên.

Tôn giả không những thần thông số một mà cũng nổi danh đại từ đại hiếu.

12- GIẢNG THUYẾT BÀI KỆ  CỦA BẢY ĐỨC PHẬT

Một hôm, chúng đệ tử đến yêu cầu Phật nói về nhân duyên bổn sanh của dòng họ Thích. Đức Phật nghĩ đến vấn đề này, nói việc tốt của bổn tộc thì e khó tránh khỏi tiếng tuyên truyền. Sau khi suy xét, Ngài bèn gọi Mục-kiền-liên thay Ngài giảng thuyết.

Mục-kiền-liên vận dụng Túc mạng thông quan sát sự tích của nhiều kiếp đã qua rõ ràng như vẽ trước mắt. Ngài thuật lại tỉ mỉ lịch sử dòng Thích-ca. Mọi người nghe xong đều cảm đến việc đức Phật giáng sanh trong dòng họ Thích và thành Chánh giác, không phải không có nhân duyên.

Mục-kiền-liên là người thường thay Phật thuyết pháp.

Lại một hôm, chúng Tỳ-kheo nhóm họp lại cùng đàm đạo, mỗi người đều trình bày chỗ tâm đắc trong việc tu học, tôn giả Mục-kiền-liên nhân đó nói bài kệ của bảy đức Phật:

                            Chư ác mạc tác,
                            Chúng thiện phụng hành,
                            Tự tịnh kỳ ý,
                            Thị chư Phật giáo.
        Dịch:
                            Chớ làm các việc ác,
                            Nên làm các việc lành,
                            Tự tịnh ý của mình,
                            Đó là lời dạy của chư Phật.

Giáo thị của chư Phật ra sao? Từ bài kệ đơn giản của Mục-kiền-liên khiến hàng sơ học biết rõ mục đích lời dạy của đức Phật. Bài kệ này cùng tôn giả đều được mọi người lưu giữ trong tâm.

13- THẦN THÔNG CHẲNG QUA NGHIỆP LỰC

Thần thông của Mục-kiền-liên trong hàng đệ tử Phật không ai sánh bằng, phàm làm việc gì Ngài vận dụng thần thông đều thành tựu.

Thần thông rất tiện cho việc tiếp dẫn chúng sanh, nhưng thần thông không thể trái ngược phép tắc nhân quả, không thể thắng nghiệp lực, không thể giải thoát sanh tử phiền não, đó là sự thật.

Một lần nọ, thành Ca-tỳ-la bị vua Lưu Ly nước Kiều-tát-la (Kosala) xâm lược. Ban đầu đức Thế Tôn cũng động lòng ái quốc tìm cách giải cứu, ba phen ngồi chận đường cản trở đại quân của vua Lưu Ly. Tuy vua Lưu Ly mỗi lần gặp Phật, mỗi lần lui binh nhưng lòng thù hận muốn báo thù và xâm lược không dứt được. Đức Phật biết sự báo ứng của nhân quả, muốn để cho nó tự kết thúc nên sau đó để cho vua Lưu Ly tự do đi.

Thật là thần thông của Mục-kiền-liên không thể giải được hết sạch nghiệp báo. Tôn giả biết đại quân của vua Lưu Ly bao vây thành Ca-tỳ-la, và rất kích động đến bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Thành Ca-tỳ-la bị vua Lưu Ly xâm lược, chúng con cần phải tận lực để bảo cứu nhân dân trong thành.

Đức Phật nhìn Tôn giả giây lâu rồi từ hòa nói:

- Mục-kiền-liên! Dòng Thích-ca chịu quả báo của tội nghiệp nhiều kiếp đã qua. Đó là cộng nghiệp chiêu cảm, ông không thể chịu thay cho họ. Họ chẳng chịu sám hối, một bề kiêu mạn, không sửa đổi, nhà cửa mục nát thì đến ngày sụp đổ thôi!

Mục-kiền-liên nghe Phật nói, tuy biết đó là sự thật, nhưng nghĩ đến thần thông quảng đại của mình, muốn dùng để cứu nạn dân chúng trong thành.

Vua Lưu Ly dùng trăm vạn đại quân vây khốn Ca-tỳ-la, một giọt nước cũng không lọt, người ta làm sao đi lại. Chỉ có Mục-kiền-liên vận thần thông nương hư không bay vào thành. Tôn giả vào thành rồi, chọn năm trăm người ưu tú trong dòng Thích-ca thâu nhiếp vào trong bình bát, và bay ra. Đến một nơi an ổn, Ngài mở nắp bát tính thả năm trăm người ấy ra, chẳng dè không thấy gì cả. Một phen nhìn xuống thất kinh hồn vía, năm trăm người trong bát đều hóa thành máu cả.

Đến lúc này Tôn giả mới biết lời Phật nói không sai, phép tắc nhân duyên chẳng thể làm ngược lại, dầu kể là thần thông cũng không qua nghiệp lực.

14- NGƯỜI TUẪN GIÁO ĐỆ NHẤT

Mục-kiền-liên nhờ thần thông lên trời xuống đất hỗ trợ tuyên dương Phật pháp, công ấy rất lớn. Nhưng Phật đã nói, thần thông không phải pháp môn cứu cánh. La-hán mày dài vốn là đại thần vua Ưu Điền, tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, theo Phật xuất gia đắc thần thông, hay biến hiện kỳ diệu trước hàng cư sĩ. Đức Phật từng quở trách và dạy ông rời khỏi Tăng đoàn, một mình qua châu Tây Cù-da-ni giáo hóa. Chỉ có đối với thần thông của Mục-kiền-liên, đức Phật chẳng những không quở trách mà lại thường khen ngợi. Chẳng phải đức Thế Tôn có tâm thiên lệch nhưng Ngài biết một điều là dùng thần thông của Mục-kiền-liên để hỗ trợ tuyên hóa rất tốt, nhưng kết cuộc thần thông không thể hơn nghiệp báo. Nghiệp lực của mỗi người tạo tác rõ ràng dù là thần thông cũng không khỏi chết. Đức Phật dùng sự thật ấy để răn dạy người sau.

Tôn giả Mục-kiền-liên tuổi gần về già nhưng hoạt động truyền giáo vẫn như nước chảy mây bay, càng lúc càng tinh tấn. Tôn giả không biết rằng chính vì nhiệt tâm tuyên dương giáo pháp của mình lại khiến cho ngoại đạo tật đố. Bọn chúng đối với đức Phật không có biện pháp gì, chỉ đợi cơ hội ám sát Mục-kiền-liên.

Mục-kiền-liên gánh vác trách nhiệm hoằng hóa lợi sanh. Một lần nọ trên đường tuyên dương chân lý, đi ngang qua núi Y-tư-xa-lê, bị bọn lõa hình ngoại đạo bắt gặp. Chúng bèn từ trên núi xô đá xuống, muốn sát hại Mục-kiền-liên. Đá rơi loạn xạ như mưa khiến nhục thân vô thường của Tôn giả nát ngứu như tương, nhưng bọn lõa hình ngoại đạo hai ba ngày sau còn chưa dám đến gần nơi Tôn giả tử nạn, họ vẫn còn sợ sức thần thông của Tôn giả. Thật là Tôn giả vì truyền bá chủng tử Bồ-đề cho nên gặp sự bức hại của ngoại đạo, để lưu lại cho hậu thế tấm gương hy sinh. Nhục thân của Tôn giả cũng trường tồn với thế gian. Máu của Tôn giả đổ ra không phải là vô ích, bao nhiêu vị tiên hiền thánh triết đã vì hoằng pháp lợi sanh, noi theo dấu chân của Tôn giả Mục-kiền-liên hiến tất cả sinh mệnh cho ánh sáng chân lý, để cho Phật pháp bất diệt. Sự hy sinh ấy thật có giá trị lớn lao.

Tin tôn giả Mục-kiền-liên bị ngoại đạo ám hại truyền đến tai vua A-xà-thế. Nhà vua nổi cơn phẫn nộ, hạ lệnh bắt hết các hung thủ, mấy ngàn lõa hình ngoại đạo đều bị nhà vua ném vào hầm lửa!

Chuyện ấy cũng không giải trừ được nỗi bi ai của các Tỳ-kheo, đại chúng than thở cho rằng trên thế gian không công bình, tại sao Mục-kiền-liên thần thông đến thế mà không tránh được sự phục kích của ngoại đạo.

Tâm các vị Tỳ-kheo không cam chịu được bèn tập hợp đến thỉnh ý Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều là đệ tử thượng thủ của Phật. Mục-kiền-liên là một người hoàn toàn, khi Phật lên thiên cung thuyết pháp cho mẫu hậu, tôn giả nhận lời yêu cầu của chúng con lên cung trời bái vọng Thế Tôn. Mẫu thân ông vì phỉ báng Tam bảo mà bị đọa địa ngục, ông cũng xuống địa ngục cứu mẹ. Tôn giả là một người có thần thông oanh liệt, tại sao không dùng sức thần đối kháng ngoại đạo?

Đức Phật đã thể chứng chân lý vũ trụ, chỗ thiết yếu pháp sanh trên thế gian, đại trí giác của Ngài mênh mông như đại hải. Ngài đã biết trước nên không kích động như các Tỳ-kheo. Ngài an nhiên bảo đại chúng:

- Mục-kiền-liên không phải không chống cự nổi với ngoại đạo, nhưng ở lần trước khi vua Lưu Ly xâm lược Ca-tỳ-la, ông ấy dùng thần thông mà cứu không được nhân dân trong thành, nên biết thần thông không qua nghiệp lực, nhục thể là vô thường, nghiệp báo cần phải trả, trong đời quá khứ ông ấy làm nghề chài lưới, sát hại oan uổng không biết bao nhiêu sanh linh. Các ông đừng lấy làm khó chịu, Mục-kiền-liên tuy chết nhưng chân lý không hề mất!

- Nhưng bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn cảm thấy Mục-kiền-liên bị hại quá ư thê thảm!

- Các Tỳ-kheo! Các ông không nên nghĩ như vậy. Vấn đề sanh tử đối với người giác ngộ không quan trọng. Có sanh ắt có tử, chuyện tử không nhất thiết là chuyện kinh sợ hoang mang, đừng chấp chặt vào đó. Mục-kiền-liên khi vong thân chẳng mê muội tấn nhập Niết-bàn, đó là điều đáng quý. Mục-kiền-liên hy sinh vì sự nghiệp tuyên dương giáo pháp, đó mới là cái đẹp vô hạn.

Trong hàng Tỳ-kheo vẫn có người còn thắc mắc, họ than thở lắc đầu, thương cảm hết sức, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn biết cần phải có tinh thần hy sinh vì đạo, nhưng Tôn giả hy sinh như vậy thật quá sớm, còn biết bao sự nghiệp hoằng hóa, chúng con đều cần sự lãnh đạo của Tôn giả. Thế Tôn! Sao Ngài không bảo trước với Tôn giả để ông ấy dự phòng?

Qua những lời trên, chúng ta có thể biết mọi người rất xúc động trước sự tuẫn giáo của Tôn giả, và cũng biết các Tỳ-kheo rất khâm phục Mục-kiền-liên. Một lần nữa, đức Phật lại dùng lời an ủi khích lệ đại chúng:

- Các Tỳ-kheo! Khi Mục-kiền-liên lâm nạn chẳng phải ông ấy không biết dự phòng, ông ấy có thể bảo vệ cho mình khỏi chết, nhưng đó không là biện pháp cứu cánh, người tu hành không thể sai trái pháp tắc nhân quả. Ông ấy gieo nhân chài cá, nghiệp sát sanh phải kết thúc bằng quả bị hại. Vả lại, Mục-kiền-liên đã phát nguyện đem mạng sống hy sinh cho chân lý, đó là bản nguyện của ông, ông ấy rất hoan hỷ nhập diệt. Nếu đệ tử của ta đều có tinh thần của Mục-kiền-liên thì Phật pháp lại phát huy rộng lớn. Các ông nên bắt chước theo Mục-kiền-liên.

Pháp ngữ khai thị của đức Thế Tôn, các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni nghe rồi rất cảm động. Một sắc thân Mục-kiền-liên tử vong, sẽ còn có vô số Mục-kiền-liên vì tuyên dương chân lý, vì sự lưu truyền của Thánh giáo mà hoan hỷ tự nguyện noi dấu!

Xá Lợi Phất

 XÁ LỢI PHẤT

TRÍ TUỆ ĐỆ NHẤT

1- TRƯỚC VÀ SAU ĐẢN SANH

Tại nước Ma-kiệt-đà ở Nam Ấn Độ, cách thủ đô Vương Xá khoảng hai ba dặm, có một thôn trang tên Ca-la-tý-nỏa-ca, rừng đẹp trúc cao, núi xanh sông biếc, thật là một địa phương u tịnh, và đó cũng là quê hương của ngài Xá-lợi-phất.

Xá-lợi-phất sanh trong gia đình Bà-la-môn, thân phụ Đề-xá là luận sư nổi danh trong giáo đoàn Bà-la-môn. Thân mẫu khi mang thai Ngài, trí tuệ trội vượt hơn mọi phụ nữ tầm thường (Theo truyền thuyết đó là do ảnh hưởng của thai nhi).

Em trai thân mẫu là Câu-hy-la, cũng rất giỏi nghị luận, nhưng mỗi khi cùng với bà chị đàm đạo, đều bị cạn lời bí lối, chẳng dám cầm cự phải thoái lui. Ông xấu hổ rời nhà ra đi, biết rằng đứa bé trong bụng chị mình ngày sau sẽ là một người đại trí tuệ, nếu tự mình không tiến hơn, mai sau cậu chẳng bằng cháu, thiên hạ sẽ cười cho thối óc. Do đó, ông đi khắp nơi tìm thầy học hỏi, nghiên cứu miệt mài đến nỗi móng tay ra dài mà không dám nghỉ để cắt. Người đương thời đặt cho ông danh hiệu là Trường Trảo Phạm Chí (Sau này khi Xá-lợi-phất quy y Phật, ông cũng quy y theo làm Sa-môn).

Vào năm tám tuổi, Xá-lợi-phất đã có thể giải suốt mọi thư tịch. Thời ấy, trong nước Ma-kiệt-đà, có hai anh em trưởng giả, anh tên Cát-lợi, em tên A-già-la, mở tiệc đãi đằng vua quan, thái tử, các vị luận sư… ca vũ nhạc kịch, luận cổ bàn kim. Đại hội quy định, ai ngồi theo chỗ đó, chỉ có cậu bé Xá-lợi-phất trèo lên bảo tọa của luận sư cao tột, bên cạnh không người nào dám ngồi, mà chẳng hề sợ sệt. Ban đầu, mấy ông đại luận sư cho đó là một tên thiếu niên vô tri, không thèm đếm xỉa đến, sai các đệ tử nhỏ tuổi đến thù đáp, nhưng gặp Xá-lợi-phất lời lẽ khúc chiết, nghĩa lý thích hợp, làm kinh ngạc bốn phía. Lúc ấy các đại luận sư mới khâm phục, khen ngợi rối rít, quốc vương cũng đẹp dạ, đem luôn một thôn trang phong tặng Xá-lợi-phất.

Ấu thơ tám tuổi đã xuất đầu lộ diện trong trường hợp như thế, phụ thân tuy nổi danh học giả, cũng tự cảm nhận: Thông minh tài trí của mình không bằng cậu con yêu.

2- LÃO SƯ CHÂN CHÁNH

Đến tuổi trưởng thành, người trong nước đều biết đại danh Xá-lợi-phất. Dáng người cao lớn, dung mạo thanh tú, mắt sáng như sao, tay dài quá gối, Xá-lợi-phất thừa hưởng truyền thống học giả của phụ thân nên cũng rất có phong độ học giả. Giới học thuật đương thời không ai không biết đến chàng thanh niên hậu sanh khả úy này.

Đến năm hai mươi tuổi, Xá-lợi-phất từ giã quê hương phụ mẫu, lên đường tìm sư học đạo. Ban đầu, chàng đến bái yết vị Bà-la-môn nổi danh San-xà-dạ làm thầy, nhưng học chưa được bao lâu, chàng cảm thấy học vấn của thầy không đủ đáp ứng cho sức tìm hiểu của mình, bèn tính chuyện cáo từ. Bạn đồng học lúc bấy giờ, chỉ có Mục-kiền-liên là tâm giao, Xá-lợi-phất đem ý định của mình nói cho bạn nghe, và Mục-kiền-liên cũng cảm thấy như vậy. Cả hai bèn quyết định ly khai San-xà-dạ, thành lập riêng một học đoàn, chiêu tập đồ đệ. Hai chàng tuổi trẻ yên chí rằng trên đời này không có người trí thức nào sánh kịp mình, và cũng chẳng có ai đủ tư cách làm thầy mình.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên tuổi tác tương đương, sức học và tư tưởng cũng gần gũi, cả hai đều có chí nguyện tìm cầu chân lý, nên tình cảm rất hòa hợp. Sức tự tu và dạy học, học giả trên toàn cõi Ấn Độ không có ai vừa mắt hai chàng.

Một ngày nọ, trên con đường đến thành Vương Xá, Xá-lợi-phất gặp một vị đệ tử Phật, Tỳ-kheo A Thị Thuyết. A Thị Thuyết là một trong năm vị Tỳ-kheo đầu tiên quy y Phật, Ngài đã trải qua nhiều năm khổ hạnh, đến khi nghe Phật nói pháp Tứ Đế, liền chứng Thánh quả. Ngài có thái độ trang nghiêm, đi đứng oai nghi, Xá-lợi-phất một phen thấy qua trong lòng sanh kinh ngạc, không thể ngăn nổi sự tò mò đến trước hỏi luôn:

- Xin lỗi, cho phép tôi hỏi thăm đạo giả, chẳng hay Ngài tên gì? Hiện ở đâu ?

- Đa tạ! Tôi tên A Thị Thuyết, ở Trúc Lâm tinh xá ngoài thành không xa.

- Thầy của Ngài là ai? Bình thường dạy Ngài đạo lý gì?

Xá-lợi-phất khi hỏi câu này thật là khẩu khí của một trưởng giả. A Thị Thuyết chậm rãi trả lời:

- Thầy tôi là bậc đại Thánh Thích-ca Mâu-ni xuất sanh từ dòng họ Thích. Ngài dạy về chơn lý của vũ trụ nhơn sanh, kẻ ít học như tôi không thể lãnh hội trọn vẹn, nhưng tôi còn nhớ, đạo lý của Ngài thường giảng là:

                        Các pháp do nhân duyên sanh
                        Các pháp do nhân duyên diệt.

Cũng dạy rằng: “Các hạnh vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui.” Đối với lời dạy của bậc Đạo sư, thật khó diễn tả được hết cảm kích của chúng tôi.

Xá-lợi-phất được nghe danh hiệu Phật-đà và giáo pháp của Ngài, dường như trời long đất lở, như sáng ngời mặt trời trước mắt, tất cả mối nghi ngờ về vũ trụ nhân sinh đều biến mất, chàng đứng bên đường đàm đạo với A Thị Thuyết như là bạn tri kỷ trăm năm, và sau cùng ước hẹn, sẽ đến bái phỏng đức Phật.

Xá-lợi-phất về đến nơi, Mục-kiền-liên thấy bộ dạng hân hoan của bạn, liền hỏi thăm:

- Xá-lợi-phất, có việc gì trông bạn có vẻ cao hứng đến thế?

- Mục-kiền-liên! Đây là dịp cao hứng đệ nhất trong đời tôi, thật hoan hỷ, tôi báo cho bạn biết, tôi đã tìm gặp vị Lão sư của chúng ta.

- Bạn nói gì thế, ai là người có thể làm thầy chúng ta?

- Phật-đà! Đó chính là đức Phật-đà!

Xá-lợi-phất liền đem những lời của A Thị Thuyết về đức Phật và giáo pháp, kể lại cho Mục-kiền-liên nghe, người kể, người nghe đều không ngăn được xúc động, bất giác rơi lệ.

Pháp nhân duyên, người bình thường nghe sẽ không lãnh hội được ra sao, nhưng đối với người tìm cầu chân lý như Xá-lợi-phất, thì phải ném hết những công phu tu hành từ nhiều năm nay. Có thể nói không lầm rằng người nhận thức được pháp nhân duyên mới có thể nhận thức được Phật pháp.

Ngày hôm sau, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đem hai trăm đồ chúng, đồng đến Trúc Lâm tinh xá, quy y dưới tòa đức Phật. Đức Phật cũng rất hoan hỷ, Ngài biết rằng chân lý mình chứng ngộ đến hôm nay mới gặp đúng người có thể tiếp thọ, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cũng cảm thấy mình đã gặp đúng bậc minh sư.

3- GIÁM ĐỐC CÔNG TRÌNH KỲ VIÊN

Sau khi Xá-lợi-phất quy y Phật, lực lượng Tăng đoàn bắt đầu tăng thêm. Đức Phật rất tin dùng Xá-lợi-phất. Người thứ nhất vâng lãnh sứ mạng sang phương Bắc hoằng pháp, và trông coi việc xây cất Kỳ Viên tinh xá, là Xá-lợi-phất.

Trúc Lâm tinh xá nằm ở Ma-kiệt-đà, Nam Ấn Độ, còn trong thời gian Phật thành đạo hai năm đầu, ở phương Bắc không có một căn cứ để thuyết pháp. Nhân duyên kỳ ngộ, Tu-đạt trưởng giả ở thành Vương Xá nước Kiều-tát-la (Kosala) phương Bắc, nhân đến phương Nam thăm người quen, được gặp thánh nhan của Phật, liền phát tâm quy y, và phát tâm kiến lập một tinh xá ở phương Bắc cúng dường Phật để khắp rưới nước cam lồ.

Trưởng giả Tu-đạt dùng vàng ròng trải khắp mặt đất mua vườn hoa của Thái tử Kỳ-đà làm nơi kiến tạo tinh xá. Ông thỉnh Phật cử cho một người thiết kế và trông coi công việc. Đức Phật biết chính Ngài không có nhân duyên đến phương Bắc, ở đấy toàn là ngoại đạo. Đến đấy không những chỉ hướng dẫn việc xây cất tinh xá, mà còn phải hàng phục chúng ngoại đạo. Vì thế, Xá-lợi-phất cùng Tu-đạt đến thành Xá-vệ trước.

Tinh xá vừa khởi công không bao lâu, quả không lầm, ma nạn khởi lên. Nhiều nhóm ngoại đạo ganh ghét sự phát triển của Phật giáo, đến yêu cầu Tu-đạt bỏ ý định xây dựng tinh xá cúng Phật, thậm chí bảo ông đừng tín ngưỡng Phật-đà.

Tu-đạt là người đã lãnh thọ pháp ân của Phật, dù bất cứ thế nào ông cũng không nghe theo lời của ngoại đạo, họ bèn nghĩ đến việc biện luận với đệ tử Phật, ngài Xá-lợi-phất. Họ chắc rằng đánh đổ Phật giáo, để làm cho Tu-đạt tỉnh ngộ. Tu-đạt nghe qua tin này rất kinh sợ, nghĩ thầm một mình ngài Xá-lợi-phất làm sao tranh biện nổi với từng ấy ngoại đạo?

Ông rầu rĩ báo cho Xá-lợi-phất biết ý định của bọn họ, trái lại Ngài rất hoan hỷ, đây chính là cơ hội tốt nhất để Ngài thay Phật tuyên dương giáo pháp.

Đã ước định về thời gian, địa điểm mở cuộc đại hội biện luận, ngoại đạo cử mười vị luận sư danh tiếng, bên nhà Phật chỉ có một ngài Xá-lợi-phất. So sánh về lực lượng, bên Phật giáo tuy ít, nhưng một mình ngài Xá-lợi-phất có thể hạ ngàn vạn ngoại đạo. Xá-lợi-phất là đệ tử vô tỷ trong hàng đệ tử Phật, lại xuất thân từ gia đình Bà-la-môn, ông nội, phụ thân đều là những luận sư danh tiếng trong Bà-la-môn giáo, đều là học giả bậc nhất của toàn cõi Ấn Độ. Học vấn của Xá-lợi-phất đã thừa hưởng truyền thống danh giá đó, Ngài tinh thông tất cả kinh điển ngoại đạo, và hiện tại là người đắc Thánh quả. Chọn Xá-lợi-phất để tranh luận với ngoại đạo, thiệt là không còn ai hơn.

Trong trường biện luận, khỏi phải nói Xá-lợi-phất thắng lợi hoàn toàn, có một số ngoại đạo tiếp thu chân lý, đều xin nhờ Xá-lợi-phất giới thiệu, trở lại quy y bậc đại thánh. Đức Phật chỉ ngồi ở phương Nam mà ánh sáng oai đức đã chiếu trùm đến phương Bắc.

Phen này Xá-lợi-phất hướng dẫn trên cả ngàn vạn người quy y Phật, Tu-đạt đến lúc này mới nở lỗ mũi, càng khâm phục Xá-lợi-phất, càng cảm kích oai đức của Thế Tôn.

Việc xây cất Kỳ Viên tiến rất mau, theo thiết kế của ngài Xá-lợi-phất, trù liệu có mười sáu giảng đường dành cho đại hội giảng kinh, lại có mười sáu tiểu đường, chia ra làm phòng ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho… Ngoài ra còn có sân vận động, ao tắm, suối nước giặt giũ…

Lúc tinh xá sắp hoàn thành, Xá-lợi-phất nói với Tu-đạt:

- Trưởng giả! Ông nhìn xem, trên trời xuất hiện những gì kia?

- Thưa Tôn giả! Con chẳng thấy có gì cả – Tu-đạt thất vọng trả lời.

- Chẳng có gì lạ, mắt thường không thể thấy được những biểu hiện, bây giờ ông nương sức thiên nhãn của tôi, xem lại một lần nữa.

- A! Tu-đạt vui mừng kêu lên: - Thưa Tôn giả con thấy có nhiều cung điện trang nghiêm rực rỡ.

- Đó là cung điện của sáu cõi trời Dục giới, vì ông cúng dường tinh xá cho Phật thuyết pháp, tinh xá tuy chưa hoàn thành, nhưng cung điện của ông trên sáu cõi trời đã sớm dành sẵn cho ông.

- Nhưng, trong sáu cõi trời ấy nhiều những cung điện đến thế, con phải ở cõi trời nào mới tốt?

- Cõi trời Đao Lợi thọ mạng rất lâu, biết tu hành, siêng năng trong Phật đạo, khó đọa lạc. Xá-lợi-phất giải thích cho Tu-đạt nghe.

- Vậy sau này con nhất định nguyện về cõi Đao Lợi.

Khi Tu-đạt nói xong, những cung điện kia dần dần ẩn mất, chỉ có cung điện của cõi trời Đao Lợi sáng rực đẹp đẽ hiện ở không trung. Tu-đạt thấy rồi rất mừng rỡ, trong cuộc bình sanh chưa bao giờ được như vậy.

4- KHÔNG THOÁI CHUYỂN TÂM ĐẠI THỪA

Nhân chuyện trưởng giả Tu-đạt cúng dường tinh xá cho Phật, nhờ thần lực thiên nhãn của ngài Xá-lợi-phất thấy được cung điện cõi trời. Về đôi mắt của tôn giả, trong thời quá khứ tu nhân sáu mươi kiếp về trước khi Ngài tu khổ hạnh, có một sự kiện liên quan đến đôi mắt ấy.

Xá-lợi-phất phát tâm tu đạo Bồ-tát hành hạnh bố thí của Đại thừa, Ngài không những nguyện đem nhà cửa, ruộng vườn, tài sản… những vật sở hữu nơi thân vui lòng bố thí, tối hậu cho đến thân thể, mạng sống, cũng không tiếc một mảy may, nguyện bố thí cho người.

Phát tâm nguyện chơn thiết như vậy, làm kinh động trời đất, bèn có một Thiên nhơn đến thử đạo tâm của Ngài.

Thiên nhơn biến thành một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, ngồi chờ trên đường Xá-lợi-phất thường đi qua. Thanh niên vừa thấy Ngài đi đến bèn lớn tiếng khóc rống, Xá-lợi-phất thấy vậy bất nhẫn, đến trước mặt an ủi hỏi han:

- Úy da! Này cậu kia, vì sao ngồi đây khóc lóc trông thương tâm như vậy?

- Ông đừng hỏi lôi thôi, nói cho ông nghe cũng chẳng được gì.

- Tôi là Sa-môn học đạo, phát nguyện cứu giúp khổ nạn cho chúng sanh. Anh cần gì nếu tôi có sẵn, tôi sẽ giúp anh mãn nguyện.

- Ông chẳng thể giúp tôi được đâu, tôi khóc đây chẳng phải vì thiếu tài vật thế gian, mà vì mẹ tôi mang bệnh không thể trị được, thầy thuốc nói cần phải có con mắt của người tu để hòa thuốc, bệnh mẹ tôi mới lành. Con mắt của người đời đã khó kiếm, con mắt của người tu làm sao chịu cho tôi? Nghĩ đến mẹ già rên rỉ trên giường bệnh chờ thuốc, tôi bất chợt đau đớn mà phát khóc đó ạ!

Chuyện đó đâu khó gì, tôi vừa nói với anh, tôi là Sa-môn kia mà, tôi sẽ bố thí cho anh một con mắt để cứu bệnh nan y cho mẹ anh.

Thanh niên vui mừng nhảy lên.

- Ý! Ngài bố thí cho tôi một con mắt?

- Tất cả tài sản của tôi đều bố thí hết, chính lúc muốn tiến một bước trên hạnh Đại thừa tôi nguyện đem thân ra bố thí. Đang khổ sở vì chẳng gặp ai nhận, nay gặp lúc anh đang cần, tôi được mãn nguyện tâm đạo, tôi rất vui mừng cảm ơn anh, anh nên tìm cách lấy con mắt của tôi đi.

Sáu mươi tiểu kiếp trước trong tâm thầy tu Xá-lợi-phất nghĩ rằng: “Ta có hai con mắt, bố thí cho người một con, còn một con mắt cũng đủ thấy đường, đối với mình cũng chẳng trở ngại chi”.

Ngài bảo thanh niên tìm cách lấy con mắt đi, thanh niên không chịu, nói:

- Thiệt chẳng nên, làm sao tôi dám cưỡng đoạt con mắt của ông? Như lời ông phát nguyện thì ông tự móc mắt ra mà cho tôi.

Xá-lợi-phất nghe nói có lý, liền quyết tâm, dũng mãnh chịu đau, lấy tay móc ngay con mắt bên trái ra, đưa tận tay thanh niên và nói:

- Đa tạ anh đã giúp tôi thành tựu tâm nguyện, anh hãy cầm lấy!

Thanh niên cầm con mắt la lên:

- Hỏng bét! Ai biểu ông móc con mắt trái ra đây. Bệnh của mẹ tôi, phải dùng con mắt bên phải mới tốt.

Xá-lợi-phất nghe nói, thiệt là hỏng tuốt, Ngài tự trách mình không hỏi kỹ rồi hãy móc mắt, bây giờ làm sao? Cho con mắt bên trái, còn con mắt bên phải để xài, nếu cho luôn con mắt bên phải sẽ không thấy gì ráo. Thật đáng kính phục, Xá-lợi-phất không bao giờ trách người, Ngài nghĩ tiếp, phát tâm phát cho triệt để, cứu người cũng cứu triệt để, khó gặp được người nhận thí để thành tựu đạo hạnh của mình, nên móc con mắt bên phải cho người mới xong. Xá-lợi-phất nghĩ như vậy rồi bèn an ủi thanh niên:

- Anh đừng nóng ruột, vừa rồi tại tôi hấp tấp không kịp hỏi nên móc lộn con mắt, bây giờ tôi biết rằng, thân thể này là hư huyễn vô thường. Tôi còn con mắt bên phải, tôi xin móc luôn cho anh làm thuốc chữa bệnh cho mẹ anh.

Xá-lợi-phất nói xong, lại quyết tâm một phen nữa, mạnh dạn chịu đau móc luôn con mắt bên phải cho thanh niên nọ.

Thanh niên cầm con mắt Xá-lợi-phất không thèm nói một lời cám ơn, đưa con mắt lên ngửi một cái, quăng luôn xuống đất, mắng:

- Ông là thầy tu cái gì? Con mắt hôi rình khó ngửi, làm sao nấu thuốc cho mẹ tôi dùng!

Thanh niên mắng xong còn lấy chân chà lên con mắt của Xá-lợi-phất.

Tuy không thấy, nhưng lỗ tai còn thính, Ngài nghe lời thanh niên mắng mỏ, nghe tiếng chân thanh niên chà đạp con mắt của mình, Ngài thở dài, nghĩ thầm: “Chúng sanh khó độ, tâm Bồ-tát khó phát, ta chẳng dám vọng tưởng tiến tu Đại thừa, ta nên quay lại chú trọng việc tu hành tự lợi thôi!”

Trong tâm Ngài vừa khởi ý niệm ấy, tức thời trên không trung xuất hiện rất nhiều Thiên nhơn nói với Xá-lợi-phất:

- Tu đạo giả! Ngài đừng chán nản, người thanh niên lúc nãy là do Thiên nhơn chúng tôi đến thử thách Bồ-tát hạnh của Ngài, Ngài phải dũng mãnh tinh tấn lên, theo như tâm nguyện mình mà tu học.

Xá-lợi-phất nghe nói rất xấu hổ, tâm Bồ-tát lợi tha khởi phát trở lại, ngay lúc ấy thành tựu được đạo tâm bất thoái.

Từ sáu mươi tiểu kiếp đến nay, Xá-lợi-phất không ngừng học đạo, đời này được gặp Phật, chứng Thánh quả, do đó được Thiên nhãn thông.

5- THỌ THỨC ĂN BẤT TỊNH

Xá-lợi-phất là thủ tọa trong hàng đệ tử Phật, đại trí đại tuệ, thần lực siêu quần, Ngài đối với đức Phật thật là bách y bách thuận, đối với lời chỉ dạy của Phật chưa từng cãi lời.

Đức Phật đối với các đệ tử, tín nhiệm nhất là Xá-lợi-phất, sau ngày thành đạo, lần trở về cố hương Ca-tỳ-la thứ nhất, gặp La-hầu-la muốn xuất gia, đức Phật bảo ông bái Xá-lợi-phất làm thân giáo sư, theo Xá-lợi-phất thọ giới Sa-di.

Một hôm, Xá-lợi-phất dắt Sa-di La-hầu-la đi khất thực trở về, đức Phật thấy vẻ mặt của La-hầu-la không vui, biết trong tâm ông có chuyện bất bình, bèn gọi ông đến gần, hỏi ông trong lòng bất mãn việc gì.

Sa-di La-hầu-la cúi đầu tỏ ý không vui, giọng nói bất mãn:

- Phật-đà! Con là Sa-di, đáng lẽ không nên nói lỗi bậc Thượng tọa, nhưng nếu không nói thì không ai biết hoàn cảnh của Sa-di chúng con.

- Sự việc như thế nào? Ông giải thích ta nghe.

- Phật-đà! Các vị Thượng tọa và Trung tọa dẫn chúng con ra ngoài thành khất thực, tín chúng cúng dường các vị ấy toàn những món ngon thượng đẳng, còn hàng Sa-di sơ học chúng con, chỉ bố thí toàn cơm trộn xác mè, rau rừng lộn lạo. Thân thể con người đối với việc ăn uống đâu có phân biệt tuổi tác và giới hạnh, đều có nhu cầu giống nhau. Các vị trưởng lão ngoài sự thọ dụng của riêng mình, không có lòng từ bi đoái hoài đến chúng con, khiến tín chúng cúng dường sanh tâm phân biệt.

- Việc ấy đâu đáng gì để nói, chỉ có chút tiểu sự mà ông không thể nhẫn!

- Phật-đà! Xin Ngài từ bi đừng trách mắng chúng con, được ăn dầu mè và tô lạc mới có thể tăng trưởng khí lực, thân thể khỏe mạnh mới có thể an tâm tinh tấn tu hành, còn chúng con mỗi ngày ăn xác mè và rau rừng, dinh dưỡng không đủ, lâu ngày thân thể mỏi mệt, thường chẳng có thể chuyên tâm tu trì.

Đức Phật nghe La-hầu-la nói, cũng công nhận là đúng, tuy nhiên Ngài cũng răn dạy:

- La-hầu-la! Ông rời hoàng cung gia nhập Tăng đoàn là vì thọ sự hảo cúng dường phải không?

- Thưa không! Bạch Thế Tôn, con vào Tăng đoàn là vì để học đạo tu hành.

- Vậy thì ông mới nói chuyện gì đó? Như nếu nghĩ đến việc tu hành, thì khi thọ nhận của tín thí một hạt mè, một hạt cơm cũng thấy là đầy đủ. Ông đi mà lo tu hành, đừng quá quan tâm đến việc ăn uống.

Tuy dạy bảo La-hầu-la như thế, nhưng Ngài cũng biết tín chúng khi cúng dường có khởi tâm phân biệt, trong lòng không vui. Ngài kêu Xá-lợi-phất đến sau khi bảo La-hầu-la lui ra, hỏi:

- Xá-lợi-phất, hôm nay ông thọ đồ ăn bất tịnh, ông biết không?

Xá-lợi-phất nghe nói kinh hãi, lập tức cho những thức ăn hôm nay ói hết ra đất và bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Từ lúc con quy y với Ngài, con vẫn y pháp khất thực của Phật mà xin ăn, con không hề trái phạm mà xin thức ăn bất tịnh.

Phật biết rõ tâm Xá-lợi-phất, giải thích:

- Việc khất thực của riêng ông, ta biết là hoàn toàn không trái phép, nhưng Tăng đoàn có lục hòa, không nên chỉ biết riêng mình. Về pháp chế nên bình đẳng, lợi ích cũng đều nhau, làm bậc trưởng lão nên thường thương tưởng để ý đến các Tỳ-kheo nhỏ tuổi và Sa-di, khi khất thực nên chú ý đến họ.

Đức Phật dạy xong, Xá-lợi-phất đối với lời dạy không có một chút bất bình, đều cảm kích lãnh thọ.

6- KHIẾN KẺ PHẢN BỘI KINH SỢ

Trong hàng đệ tử Phật, có một Tỳ-kheo tên Đề-bà-đạt-đa, ông ta vốn là đường đệ của Phật khi Ngài còn làm vương tử, sau khi theo Phật xuất gia được mười năm, bị ma quỷ làm mê mờ tâm trí, bèn phản lại đức Phật, tách rời khỏi Tăng đoàn.

Một hôm, sau khi đức Phật đi khất thực về, cùng các đệ tử nghỉ ngơi tại giảng đường, Đề-bà-đạt-đa ngang nhiên dẫn đầu nhóm bè đảng đến yêu cầu Phật nhường quyền lãnh đạo Tăng đoàn cho ông.

Phật chẳng hề trả lời, mặc cho Đề-bà-đạt-đa la lối om sòm, Phật vẫn im lặng nhường lời, Đề-bà-đạt-đa lại kêu gọi các Tỳ-kheo đi theo ông. A-nan là bào đệ của ông, lúc ấy mới nói:

- Xin anh đừng hồ đồ, anh là huynh trưởng của tôi, tôi nghĩ đến anh tạo tội nặng như thế, tương lai sẽ bị đọa mà cảm thấy ghê sợ. Đức Phật là bậc đại từ bi, con người như anh không thể sánh với Ngài. Nếu hôm nay có mặt Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ở đây, chắc chắn không để cho anh tung hoành như vậy.

Sau đó, Đề-bà-đạt-đa dùng các phương pháp uy hiếp, dùng lợi lộc dụ dỗ các đệ tử Phật, có một số người lòng tin không vững, vì tham mê sự cúng dường nồng hậu của vua A-xà-thế đối với Đề-bà, đổi lòng đi theo ông.

Ngày nọ, đang khi các phản đồ cùng với số đệ tử của Đề-bà-đạt-đa nhóm họp một chỗ, Xá-lợi-phất uy nghiêm đi đến và hỏi:

- Này quý vị, tôi hỏi quý vị một câu, quý vị xuất gia tu đạo là vì thọ cúng dường? Hay vì tu đạo?

Đại chúng đồng đáp:

- Vì mục đích tu đạo, vì muốn thoát ly sanh tử.

- Nếu như vậy, các ông không tu theo chánh đạo của đức Phật, lại để cho lòng tin thuần khiết tôn quý của mình bị lay động vì chút vật chất cỏn con, các ông phải mau mau phản tỉnh giác ngộ mới được.

Khi Xá-lợi-phất nói lời ấy, từ thân mình phóng ra muôn đạo kim quang, trong đó hiển hiện từ dung của Phật, các Tỳ-kheo phản bội và môn đồ của Đề-bà thấy rồi đều quỳ xuống sám hối, Xá-lợi-phất lại dẫn họ trở về Tăng đoàn.

Đức Phật từ đó càng tin cậy Xá-lợi-phất, Ngài có công lớn trong sự hòa hợp Tăng đoàn. Đề-bà-đạt-đa không sợ Phật, mà rất sợ Xá-lợi-phất.

7- LÃNH THỌ ĐẠO CỨU KHỔ

Khi đức Phật ở Kỳ Viên tinh xá, thương cho chúng sanh trôi nổi trong biển khổ sanh tử không chỗ nương cậy, nghĩ đến mọi loài luân hồi trong sáu nẻo không có một nơi trở về an vui, hạnh phúc, Ngài muốn nói lên pháp môn cứu độ nhưng sợ hạng căn cơ thấp kém nhỏ hẹp không thể tin tưởng thọ trì. Sau cùng, chọn lựa cặn kẽ, Ngài quyết định: Dùng trí tuệ của Xá-lợi-phất chắc chắn sẽ thông hiểu được cõi Cực lạc trang nghiêm thanh tịnh, chắc chắn có thể lãnh thọ tín ngưỡng Phật A-di-đà. Trong chúng hội tuy có đủ ba hạng căn cơ thượng, trung, hạ nhưng đức Phật chọn Xá-lợi-phất làm đương cơ để nói lên một pháp môn dễ thực hành mà sáng tỏ. Đức Phật dạy: “Xá-lợi-phất! Ở phương Tây, cách thế giới của ta rất xa xôi, có một thế giới tên là thế giới Cực Lạc. Ở đó có vị giáo chủ là đức Phật A-di-đà đang thuyết pháp.

Xá-lợi-phất! Thế giới ấy tại sao gọi là thế giới Cực Lạc? Vì thế giới ấy không giống thế giới Ta-bà này có nhiều xấu xa, nhỏ hẹp, đau khổ. Chúng sanh ở quốc độ đó chỉ có đầy đủ không hề thiếu thốn, chỉ có an vui không hề đau khổ, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc. Cõi ấy cảnh vật bằng phẳng, sạch sẽ, giàu có. Người trong nước về phần ăn mặc, đi đứng, thuốc men… đều tùy theo nhu cầu mà đầy đủ tiện nghi. Những người ấy đều là các bậc thượng thiện ở chung một cõi. Phong cảnh như một rừng hoa tuyệt mỹ, kiến trúc như đô thị nguy nga.

Xá-lợi-phất! Chỉ cần nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, gieo trồng nhân duyên phước đức, tu học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tương lai sẽ được Phật A-di-đà tiếp dẫn, được vãng sinh về nước của Ngài.

Xá-lợi-phất! Chúng sanh ở thế giới Ta bà nếu muốn thoát khỏi khổ não trong sáu đường luân hồi, chỉ nên phát nguyện cầu được sanh về cõi ấy. Ta từng bảo A-nan lễ bái Phật A-di-đà, ông ấy cũng từng được thấy đức Phật kia phóng hào quang lớn, các ông nên tin pháp môn khó tin mà ta vừa nói, đó thật là con đường cứu khổ.”

Đức Phật nói xong, Đại trí Xá-lợi-phất không hề có một niệm hoài nghi. Tôn giả và đại chúng đều tin sâu pháp môn Tịnh độ của Phật A-di-đà.

8- ĐỨC HẠNH NHẪN VÀ NHƯỜNG

Xá-lợi-phất đối với giáo pháp của đức Phật luôn tôn kính và phụng trì, đối với việc bố giáo chưa từng thoái chí, chỉ đối với riêng mình thì vinh nhục khen chê đều chẳng lưu tâm, thảy đều nhường nhịn.

Có một hôm, đức Phật dẫn đại chúng đi bố giáo và trở về thành Xá-vệ, lúc đó nhóm đồ đệ của Lục Quần Tỳ-kheo, đã nhanh chân đến Kỳ Hoàn tinh xá trước đức Phật và đại chúng, chiếm luôn những chỗ nghỉ ngơi tốt đẹp, ngay cả cư thất của Xá-lợi-phất cũng bị chiếm. Họ lại nói: Chỗ này là chỗ của thầy chúng ta, chỗ này là chỗ của chúng ta.

Xá-lợi-phất về sau đức Phật, ngày đó vì hơi chậm chân, khi về đến tinh xá thấy chỗ của mình bị Lục Quần Tỳ-kheo đã ở trước, không còn cách nào khác, Tôn giả bèn ra gốc cây ngồi thiền qua đêm. Sáng sớm, đức Phật dậy, nghe dưới gốc cây có tiếng ho hen, Ngài bèn hỏi:

- Ai ở đó? Sao không tịnh tọa trong phòng?

Xá-lợi-phất thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con là Xá-lợi-phất, vì hôm qua có rất nhiều Tỳ-kheo theo Phật về tinh xá, tất cả phòng đều có người, con tạm ngủ dưới gốc cây một đêm cũng không sao.

Đức Phật nghe xong rất khen đức tốt nhẫn nhượng của Tôn giả, nhưng nhóm các Tỳ-kheo lại dạy:

- Các Tỳ-kheo! Ta hỏi các ông, trong giáo đoàn ta, người nào xứng đáng được thọ lãnh sàng tòa thượng đẳng, nước thượng đẳng, ẩm thực thượng đẳng?

Các Tỳ-kheo ồn ào bày tỏ ý kiến:

- Đó là Tỳ-kheo xuất thân từ dòng vua chúa!

- Đó là Tỳ-kheo xuất thân từ dòng giáo sĩ!

- Tỳ-kheo nào tu hành và có khả năng bố giáo mới xứng đáng được sàng tòa hạng nhất, nước và thực phẩm hạng nhất!

Sau khi nghe các câu trả lời lung tung, đức Phật nghiêm nghị bảo:

- Các Tỳ-kheo! Thuở xưa tại núi Tuyết có chim chá cô, con khỉ, con voi đồng ở chung. Tuy chúng là bằng hữu, nhưng vì thân thể, sức lực và trí khôn của mỗi con không đồng nhau, nên mạnh ai nấy tự cao tự đại, không tôn kính lẫn nhau. Sau biết như vậy là sai trái, mới cung kính và nghe lời răn dạy của loài lớn tuổi, đến khi thân hoại mạng chung, chúng đều sanh vào đường lành.

Các Tỳ-kheo! Các ông phải tôn kính bậc niên lão về pháp hạnh, hiện tại được người khen ngợi, về sau mới được sanh chỗ lành. Này các Tỳ-kheo! Trong giáo pháp ta không có giai cấp cao thấp, nhưng có bậc trưởng lão về pháp lạp và giới lạp, các ông phải cung kính, phụng sự, lễ bái. Các bậc trưởng lão ấy đáng được thọ sàng tòa đệ nhất, nước và thực phẩm đệ nhất .

Đức Phật nói như thế, đại chúng đều hiểu ý, Xá-lợi-phất rất cảm kích, đại chúng cũng rất cảm kích.

9- KHEN MỘT CÁI CHẾT ĐẸP

Xá-lợi-phất tuy là bậc trưởng lão chứng Thánh quả nhưng đối với người nữ tu hành thành tựu, cũng rất tôn trọng.

Ngày nọ, Tôn giả đang ngồi thiền trong một khu rừng gần thành Vương Xá, đang lúc buông hết để nhập chánh định, bỗng nghe Tỳ-kheo ni Ưu-ba-tiên-na ngồi thiền trong hang động đối diện lớn tiếng gọi Ngài, Ngài bước đến thì Ưu-ba-tiên-na nói:

- Thưa Tôn giả! Khi tôi đang tọa thiền, trên thân mình bỗng chạm nhằm vật gì, ban đầu tôi không lưu ý, sau mới biết là một loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn, thế nào cũng chết. Bây giờ thừa lúc chất độc chưa hoành hành, xin Ngài từ bi vì tôi tìm cách mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt!

Khi nói câu ấy, Ưu-ba-tiên-na không tỏ một chút gì kinh sợ, như là chẳng có việc gì xảy ra.

- Ở đây vừa xảy ra việc đó sao? Ta xem sắc mặt cô không có gì biến đổi. Nếu như bị rắn cắn, nhất định cô sẽ biến sắc.

Ban đầu Xá-lợi-phất cho là không có việc gì nên nói như thế. Ưu-ba-tiên-na trầm tĩnh đáp:

- Bạch tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là không. Tôi đã chứng được đạo lý ấy, độc xà làm sao cắn được cái “không”?

- Cô nói rất đúng, cô đã đến trình độ thoát khỏi mọi đau đớn của thân thể, cô dùng tuệ mạng của mình mà giữ gìn sắc mặt không biến đổi.

Xá-lợi-phất khen ngợi Ưu-ba-tiên-na và thông tri cho các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni tu tập gần đó, đem Ưu-ba-tiên-na ra khỏi động, nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp người. Ưu-ba-tiên-na vô sự nhập Niết-bàn. Thấy được bậc giải thoát như thế, đại chúng rất tán thán, Xá-lợi-phất nói:

- Người tu hành điều tâm, tấn nhập Niết-bàn, đối với cái chết của thân mình, coi như bỏ một cái bát độc, như bệnh nặng được lành. Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện nhất định thành, sắp chết không đổi sắc, đó là dùng mắt trí tuệ mà xem tướng thế gian, ra khỏi nhà lửa, thật là đẹp vô cùng.

Lời ngài Xá-lợi-phất khen Ưu-ba-tiên-na, cũng vốn là phương pháp quán sát của Phật giáo đối với chuyện tử sinh. Chuyện ấy trong con mắt người tu hành, xem giống như một đám mây qua.

10- LÒNG KHOAN DUNG RỘNG RÃI

Tuổi tác của Xá-lợi-phất tùy theo vô thường năm tháng gia tăng, Ngài đến lúc là một bậc cao niên tám mươi tuổi. Năm ấy, sau mùa an cư ở Kỳ Viên, vì việc hoằng pháp độ sanh, Ngài không nề tuổi già, không từ lao khổ, thỉnh cầu đức Phật cho phép Ngài đi du phương hóa đạo. Phật hứa khả và rất khen ngợi tinh thần vì người, vì giáo lý của Xá-lợi-phất.

Tôn giả rời tinh xá không bao lâu, có một Tỳ-kheo đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xá-lợi-phất đi vân du hôm nay không phải vì tuyên dương Phật pháp, mà vì ông ấy đã làm nhục con, gặp mặt con thấy hổ thẹn muốn tránh mặt nên mới kiếm chuyện đi phương khác.

Đức Phật không thích kẻ phỉ báng người vắng mặt, nghe xong lập tức sai người mời Xá-lợi-phất trở lại, và ở trước đại chúng, Phật nghiêm nghị hỏi Xá-lợi-phất:

- Xá-lợi-phất, sau khi ông đi không lâu, có một Tỳ-kheo đến mách với ta rằng ông đã khi dể, nhục mạ ông ấy, có thật vậy không?

Xá-lợi-phất ôn hòa cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ khi con theo Ngài đến nay, nay là gần tám mươi tuổi, con nhớ con chưa từng sát hại sinh mạng, chưa hề nói lời hư vọng, chỉ trừ khi vì muốn tuyên dương chân lý, cũng chưa từng nói chuyện riêng tư lợi hại được mất của người, cùng người bàn tán tốt xấu. Hôm nay là ngày rốt sau của an cư, trong ba tháng qua, mỗi ngày con đều sám hối, không mất chánh niệm, tâm con trong lặng, không có một vẻ bất bình, con làm sao khinh thị người khác được ư?

Bạch Thế Tôn! Đất bùn hay nhẫn nhục, bất cứ vật gì nhơ uế đổ lên, đất không cự tuyệt. Phẩn tiểu, máu mủ, đờm dãi đất đều cam thọ cũng như kẹo ngon. Tâm con hôm nay bộc bạch trước đức Thế Tôn, nguyện như sức nhẫn nhục của đại địa, nguyện không trái nghịch ý người.

Dòng nước thanh tịnh, không kể vật sạch dơ hay cũ mới đều dùng nước để rửa sạch. Tâm con không yêu ghét, cũng như dòng nước.

Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét bụi, khi quét dọn không chọn lựa tốt xấu, tâm con hôm nay thật là không hề khởi phân biệt tốt xấu. Con ở trong chánh niệm, quyết không hề khinh tiện vị Tỳ-kheo kia, con đối Phật mà nói lời này, con biết việc làm của con, Tỳ-kheo kia cũng biết việc làm của vị ấy. Như nếu con có lỗi, con xin hướng về Tỳ-kheo ấy sám hối để tâm con khỏi cắn rứt.

Vị trưởng lão gần tám mươi tuổi, đã đối trước Phật cáo bạch mọi việc như thật, đại chúng nghe qua đều cảm động.

Phật bảo ông Tỳ-kheo vu cáo kia:

- Ông có lỗi hủy báng trưởng lão, bây giờ không thể không sám hối. Ông đã có ý khiến Tăng đoàn phân vân, ông chẳng muốn cho Tăng đoàn hòa hợp. Nếu như ông không chí thành sửa đổi, sẽ bị khổ báo vô cùng!

Tỳ-kheo kia vội vàng quỳ trước Phật ai cầu sám hối:

- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Xá-lợi-phất là người không lỗi chi, con đối với bậc Trí tuệ năng lực như thế mà không biết nhún mình học tập, lại sanh tật đố, xin Phật từ bi thương xót, cho con cơ hội đầu tiên sám hối.

Đức Phật trang nghiêm từ hòa bảo:

- Ông hãy đến sám hối Xá-lợi-phất.

Tỳ-kheo ấy phủ phục cúi đầu quỳ trước Xá-lợi-phất, Tôn giả bèn để tay lên đầu ông mà từ tốn nói:

- Tỳ-kheo! Trong giáo pháp của Phật, sám hối có sức mạnh vô cùng. Làm người ai không khỏi lầm lỗi? Biết lỗi liền sửa, đó là việc lành rất lớn. Tôi nhận sự sám hối của ông, từ đây về sau đừng tái phạm.

Thái độ và lời nói của Xá-lợi-phất, ai nghe cũng cảm động. Lòng quảng đại, tâm bình đẳng của Tôn giả thật là không kể kẻ oán người thân.

11- VÀO KIM CANG ĐỊNH

Khi đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá, tôn giả Xá-lợi-phất nhập Kim Cang tam-muội ở núi Kỳ-xà-quật. Trong núi có hai con quỷ một thiện một ác, một đứa tên Ưu-bà-ca-la, một đứa tên là Già-la. Chúng nhìn xa xa thấy Xá-lợi-phất đang ngồi kiết già tĩnh tọa, ác quỷ Già-la bèn nói với thiện quỷ Ưu-bà-ca-la.

- Này Ưu-bà-ca-la, ta sẽ đánh bể cái đầu của lão Sa-môn kia!

- Anh chớ nên nói như thế, vị Sa-môn ấy là đệ tử Phật, thông minh Trí tuệ số một và có thần lực, nếu như anh khởi ác tâm hại vị ấy, về sau sẽ trầm luân vĩnh cửu, chịu khổ vô cùng. Thiện quỷ Ưu-bà-ca-la can ngăn.

- Anh sợ lão Sa-môn ấy sao? Sa-môn là người rất dễ bắt nạt. Anh chú ý một chưởng của tôi, cái đầu Sa-môn lập tức nát như cám.

- Anh nói vậy chớ tôi thật kiêng nể Sa-môn, Sa-môn tuy là nhẫn nhục dễ bị lấn áp, nhưng các vị ấy có oai đức rất lớn. Anh mà đánh Sa-môn ấy, ổng tuy bị khổ nhứt thời, nhưng chúng ta sẽ vĩnh viễn bất an.

Thiện quỷ nói xong, ác quỷ vẫn không nghe liền tung chưởng đánh ngay đầu Xá-lợi-phất. Thiện quỷ không nỡ nhìn cảnh ấy, bèn tàng hình biến đi. Câu chuyện tuy nói dài dòng nhưng xảy ra chỉ trong nháy mắt, ác quỷ đánh tới, mà Xá-lợi-phất chỉ có cảm giác như một chiếc lá rơi trên đầu. Ngài mở mắt ra kịp thấy một con quỷ thất khiếu chảy máu rớt xuống địa ngục.

Xá-lợi-phất từ Kim cang tam-muội dậy, chỉnh y phục, đến vườn Trúc gặp Phật, Phật bèn hỏi:

- Xá-lợi-phất! Hôm nay, thân ông có việc gì không?

- Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con không có bệnh nặng, hiện tại trên đầu chỉ đau chút đỉnh.

- Xá-lợi-phất! Hôm nay, ông nhập Kim cang định rất tốt. Quỷ Già-la đánh trên đầu ông mà chẳng gây thương tích cho ông, phải biết quỷ Già-la mà đấm núi Tu-di cũng phải bể hai. Sức định Kim cang lớn mạnh như thế, Tỳ-kheo các ông cần phải tu trì.

Xá-lợi-phất thường dạo chơi trong Không tam muội và Kim cang tam-muội, tai nạn bên ngoài không thể làm hại Ngài tí nào.

12- XIN ĐƯỢC NHẬP NIẾT-BÀN TRƯỚC

Đức Phật ở trong rừng của thôn Trúc Phương, gần thành Tỳ-xá-ly, sau khi thuyết pháp xong liền báo cho mọi người một tin kinh hãi, đó là ba tháng nữa Ngài sẽ nhập Niết-bàn.

Mọi người đều buồn thảm, chuyện ấy không cần nói, Xá-lợi-phất cũng không thể nào nhìn thấy đức Phật Niết-bàn. Tôn giả ở trong định nghĩ thầm:

- Những đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều nhập Niết-bàn trước, nay ta là đệ tử thượng thủ của Thế Tôn, ta nên nhập Niết-bàn trước Ngài.

Sau khi nghĩ như vậy, Xá-lợi-phất liền xả thiền đến trước Phật, quỳ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nhập Niết-bàn, xin đức Thế Tôn hứa khả.

Phật chú ý nhìn Xá-lợi-phất rất lâu, mới hỏi:

- Vì sao ông muốn nhập Niết-bàn mau như vậy?

- Bạch Thế Tôn, Ngài nói Ngài sẽ nhập Niết-bàn gần đây. Thế Tôn đã ban cho con pháp tình và ân huệ rộng lớn, làm sao con có thể thấy Thế Tôn vào Niết-bàn. Vả lại, Thế Tôn từng nói, các đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều vào Niết-bàn trước các Ngài. Con thiết tưởng nay là đúng lúc con vào Niết-bàn, xin Thế Tôn từ bi hứa khả.

Xá-lợi-phất nói xong, rất có vẻ thương cảm nhưng vẫn không để mất phong độ an tịnh. Phật lại hỏi:

- Ông định vào Niết-bàn ở nơi nào?

- Ở cố hương của con, thôn Na-la-tý-nỏa-ca. Mẹ già trăm tuổi của con vẫn còn mạnh khỏe, con muốn về thăm mẹ già một lần. Và sẽ nhập Niết-bàn nơi phòng con đã được sinh dưỡng.

- Ta không cản ngăn ông, ông có thể làm theo ý mình, nhưng ông là đệ tử thượng thủ trong hàng đệ tử ta, nên đợi các chúng hội họp và lưu lại cho mọi người đôi lời giáo huấn.

Phật sai A-nan tập hợïp chúng Tỳ-kheo. Mọi người nghe tin Xá-lợi-phất cáo từ để vào Niết-bàn, đều mau mau vân tập. Trước tiên Xá-lợi-phất cáo biệt đức Phật:

- Thưa Thế Tôn, con từ quá khứ vô lượng kiếp, luôn luôn mong được sanh nhằm thời Phật ra đời, và rốt cuộc đã được mãn nguyện. Nỗi vui mừng khi gặp Phật chẳng có gì so sánh được. Trong bốn mươi năm, lãnh thọ lời dạy từ bi của Thế Tôn, khiến kẻ ngu si như con được mở mắt trí tuệ, giác ngộ chân lý, chứng Thánh quả. Ngôn từ và hình dung trong thiên hạ không thể diễn tả được sự cảm kích và vui mừng của con. Hôm nay, thời hạn lìa cõi tục của con gần kề, con sắp xả bỏ mọi ràng buộc thế gian, sắp sửa tấn nhập cảnh giới Niết-bàn tự do, tự tại. Như người gánh nặng đi xa, sắp được buông xuống. Con tự lấy làm vui mừng, con thừa thọ pháp thủy cam lồ của Thế Tôn, đã giúp con cởi mở sự trói buộc của ngũ uẩn, không còn thọ những khổ não các cõi nữa. Đây là lời từ giã cuối cùng đối với Thế Tôn, xin Ngài cho con đảnh lễ.

Xá-lợi-phất nói xong, gieo năm vóc sát đất, không khí rất trầm lặng nghiêm túc.

Phật gật đầu nói với Tôn giả:

- Xá-lợi-phất! Những lời giảng dạy của ta ông đã lãnh hội, nay ta thọ ký cho ông, tương lai ông sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, sẽ trở lại nhân gian giáo hóa chúng sanh, thành tựu quả Phật tối cao.

Đức Phật nói xong, liền bảo đại chúng tiễn đưa Xá-lợi-phất một đoạn đường. Tôn giả đứng dậy đi lui ra cho đến lúc không còn nhìn thấy Thế Tôn, mới xoay mình lại bước đi.

Các Tỳ-kheo đều mang hương hoa đưa tiễn Tôn giả, đây là lúc đượm vẻ vắng lặng, trang nghiêm thê lương, phần lớn các Tỳ-kheo đều rướm lệ.

13- LỜI TẶNG SAU CÙNG

Các Tỳ-kheo đi theo tôn giả Xá-lợi-phất một đoạn không xa, Tôn giả dừng lại nói với mọi người:

- Quý vị hãy ngừng lại đây, không cần đưa tiễn thêm. Chỉ cần Sa-di Quân-đầu theo tôi mà thôi. Xin quý vị hãy trở về, tự mình gấp rút tu hành, mong rằng quý vị nỗ lực tinh tấn thoát ly ưu bi khổ não, mau vào cảnh giới giải thoát tự do.

Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian này như hoa Ưu Đàm mấy ngàn vạn năm mới gặp kỳ nở hoa. Thân người khó được, tín tâm thuần khiết khó nuôi dưỡng, đời nay chúng ta được xuất gia lại được tự thân nghe Phật thuyết pháp, thật là việc hy hữu trong trăm ngàn vạn ức đời. Hy vọng đại chúng tinh tấn thêm lên. Các hành vô thường, cần yếu phải chiến thắng cái khổ vô thường đó, đạt đến cảnh giới Niết-bàn vô ngã, đó mới là nơi trở về vĩnh viễn chơn thật của chúng ta, đó mới là một thế giới an vui tịch tĩnh.

Tôn giả nói lời ấy xong, đại chúng nghĩ đến đây là lời tặng cuối cùng trong dịp tử biệt sinh ly, không nén nổi bi ai, mọi người đều khóc với Tôn giả:

- Tôn giả! Ngài là đệ tử thượng thủ của đức Thế Tôn, là bậc trưởng lão trong hàng Tỳ-kheo chúng con, về sau chúng con rất cần Ngài lãnh đạo trong công tác hóa đạo, vì sao Ngài sớm vào Niết-bàn như thế?

Xá-lợi-phất biết rõ tâm sự đại chúng, nhưng rất an tĩnh đáp:

- Xin các vị đừng thương cảm như thế. Thế gian này là vô thường, Phật đã chẳng thường nói với chúng ta như vậy sao? Núi Tu-di còn có lúc hoại, biển lớn còn có ngày khô cạn, cái chết của sắc thân Xá-lợi-phất tôi như hạt cải nhỏ xíu, đó là chuyện đương nhiên, đó cũng là thật tướng của thế giới.

Lời sau cùng tôi muốn dặn dò quý vị là cần phải nhất tâm tu đạo, thoát ly khổ hải, cần gấp về thế giới Cực lạc thanh lương. Đức Phật ngày xưa đã từng nói với tôi, quốc độ của Phật A-di-đà ở phương Tây là nơi giải thoát an lạc. Các vị nên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng thì nguyện vọng của quý vị sẽ như ý.

Tôi lại mong quý vị tuyên dương lưu bố giáo pháp của Phật-đà, không nên so đo toan tính về danh lợi của riêng mình; không vì phước lợi cho quần sanh thì đừng xuất gia. Cho đến thời mạt pháp, đời đời kiếp kiếp chỉ cần có chúng sanh nghĩ đến việc cầu vui dứt khổ, giải quyết xong chuyện của chính mình, họ cũng có thể nối tiếp huệ mạng của Phật-đà.

Xá-lợi-phất nói xong, mọi người đều bi thương cảm động. Mỗi người đều biết đây là lần chia tay sau cùng với Tôn giả, về sau sẽ vĩnh viễn không thể tương phùng. Tuy Tôn giả bảo đại chúng trở lui, mà ai nấy đều bước theo Ngài. Ngài không thích thái độ lưu luyến như thế, lại một lần nữa cự tuyệt sự tiễn đưa của họ. Cuối cùng, mọi người phải dừng lại, nhìn theo bóng Tôn giả mất hút mà không nghĩ chuyện quay về. Nghĩ đến từ nay không còn gặp lại vị Trí tuệ đệ nhất, mà bất giác nước mắt rơi không ngừng. Các vị ấy tuy đã giác ngộ, nhưng nhơn tình và pháp tình không khác vậy.

14- HỒI GIA

Từ giã đức Phật và Tăng đoàn, Xá-lợi-phất chỉ dắt theo Sa-di Quân-đầu. Trên đường đi, trong tâm Tôn giả khởi lên những đợt sóng cảm nghĩ triền miên. Tuy nhiên như thế nhưng trong tâm Ngài vẫn không loạn động, phẳng lặng và sáng suốt như đứng lặng trên đỉnh Tuyết Sơn, toàn vũ trụ đều hiện rõ trong tâm.
Khi đó Xá-lợi-phất về đến cố hương, mặt trời nghiêng về Tây, trên thôn làng Ca-la-tý-nỏa-ca, một ráng mây hồng ở góc trời. Tôn giả ngồi nghỉ bên đường, thốt nhiên đứa cháu gái tên Ưu-bà-ly-bà-đa đến bên lễ bái, Tôn giả hỏi:

- Bà nội có nhà không?

- Bà nội không đi đâu cả.

- Cháu thưa với bà có ta trở về.

- Dạ!

- Thưa với bà cho người quét dọn căn phòng của ta sạch sẽ, ta sẽ nghỉ ở đó một đêm.

- Dạ!

Xá-lợi-phất về làm gì, đứa cháu nhỏ chẳng hề biết ất giáp, chỉ dạ lia lịa, vội chạy về thưa với bà, báo tin bá phụ hồi gia.

Mẫu thân của Tôn giả nghe tin con mình từ lâu không về nhà, nay về đến, rất vui mừng. Xá-lợi-phất tuy đã tám mươi tuổi, nhưng đối với tấm lòng của bà mẹ già một trăm tuổi, lúc nào cũng xem Tôn giả như đứa con nhỏ.

Bảo quét dọn căn phòng sanh dưỡng của Tôn giả sạch sẽ, mẫu thân Ngài rất lấy làm lạ, nhưng nỗi vui mừng mẹ gặp con khiến bà phấn khởi không căn vặn lý do.

- Bà nội! Hãy nghỉ đi, chúng cháu quét dọn cũng được rồi – Ưu-bà-ly-bà-đa nói.

- Mấy đứa bây làm nhanh nhanh, cẩn thận quét dọn cho thật kỹ, bác bây là người rất ưa thanh tịnh đó nghen!

Mặt trời khuất núi, Tôn giả về đến nhà, hỏi thăm từng người trong gia đình. Mẹ Ngài vui mừng đến rơi lệ, nói:

- Cuối cùng rồi con cũng trở về!

Xá-lợi-phất an nhiên nhìn mẹ, mỉm cười, và đem ý định trở về đây để nhập Niết-bàn báo cho mẹ cùng gia nhơn hay, ai nấy đều kinh hãi.

- Mọi người đừng bận tâm – Xá-lợi-phất nói –Thưa mẹ! Xin mẹ đừng coi cái chết của con giống như mọi người. Khi chết ai cũng khóc lóc, nhưng con vào Niết-bàn là việc rất vui mừng. Lúc này, thâm tâm con rất vui, rất an ổn. Một đời con được gặp bậc thầy cứu thế Phật-đà, nghe được giáo pháp và thực hành theo đó, con đã được cứu vớt khỏi biển sanh tử, đã được giải thoát từ trong phiền não không còn việc gì phải sợ hãi. Sở dĩ hôm nay con trở về vì để tấn nhập Niết-bàn. Con là đệ tử thượng túc của Phật, con phải vào Niết-bàn trước Ngài. Xin cả nhà yên lòng, đời người ai khỏi chết? Như con không chút mê mờ mà vào cảnh giới Niết-bàn thường trụ, đó thật là một hạnh phúc lớn lao.

Mẹ già trăm tuổi của Tôn giả nghe xong rất buồn, nhưng nghĩ đến con mình xả bỏ thế gian một cách tốt đẹp tự do giải thoát như vậy thì cũng đáng mừng. Bà nghĩ đến cái chết của mình trong tương lai cũng hy vọng được như Tôn giả, đem hết tâm tình hoan hỷ mà đón nhận.

Xá-lợi-phất lại đem lời dạy của Phật nói lại cho mẹ nghe, bà rất thông hiểu ý Tôn giả, nói với Ngài:

- Con giảng giải rất đúng, mẹ cũng vì con mà vui mừng. Không mê muội mà vào Niết-bàn, không còn cái khổ sanh tử là hạnh phúc trên hết. Con hãy nghỉ ngơi một chút đi!

Tuy bà nói vậy nhưng cũng rơi nước mắt mà về phòng.

15- NIẾT-BÀN

Mẹ và gia nhơn đi rồi, Tôn giả mới nói với Quân-đầu:

- Con hãy qua phòng bên kia, để một mình ta trong phòng này.

Tin Xá-lợi-phất trở về nhập Niết-bàn lan truyền trong thôn xóm. Đến canh ba, nửa đêm, những người trong thôn lân cận đã quy y với Phật đều tụ tập. Vua A-xà-thế cũng đem nhiều đại thần đến, ai cũng muốn được gặp Tôn giả lần cuối, viếng thăm và nghe lời thuyết pháp của Ngài.

Quân-đầu dẫn mọi người ngồi tại một nơi và bảo hãy đợi Tôn giả nghỉ ngơi xong sẽ tái kiến.

Đêm càng sâu càng vắng, nơi tịnh thất Tôn giả chỉ có một ngọn đèn sáng, ngoài ra không nghe một tiếng động nào.

Phương Đông dần sáng, Tôn giả gọi Sa-di Quân-đầu đến hỏi:

- Có người nào đến phải không?

- Thưa phải, nhiều người nghe tin Tôn giả nhập Niết-bàn đều đến xin được gặp, cả vua A-xà-thế cũng đến.

- Con mời họ vào đây.

- Họ rất mong được thấy Tôn giả.

Quân-đầu ra nói với mọi người, Tôn giả sẽ cùng mọi người tương kiến, ai nấy còn đang sợ rằng không được thấy Tôn giả hiện tiền, nghe nói vậy đều rất phấn khởi. Mọi người rón rén bước vào phòng Tôn giả, chẳng dám ho hen, bao quanh lớp trong lớp ngoài.

Cuộc gặp gỡ thật thiêng liêng. Tôn giả nói với mọi người:

- Các vị đến đây rất đúng lúc. Tôi cũng muốn gặp quý vị một lần này. Bốn mươi năm qua, tôi vâng lãnh lời chỉ dạy của đức Thế Tôn, đi các nơi giáo hóa, hoặc là tu học bên đấng đạo sư, tôi đối với Ân sư chưa hề có một niệm không vui, hoặc một chút bất mãn, tôi càng lúc càng cảm kích ân lớn của Ngài. Trên đời này, đối với giáo thị rộng lớn sâu xa như biển lớn của Thế Tôn, cũng còn có những chỗ thậm thâm tôi chưa hiểu hết, hôm nay nghĩ đến điều ấy thật là thiếu sót vô cùng. Tôi được mọi người tôn xưng là Trí tuệ đệ nhất, chẳng qua nhờ sức từ bi của Phật, vâng theo lời dạy mà hành trì, nỗ lực tinh tấn mà chứng Thánh quả.

Tôi nói như vậy, là muốn nhắc cho các ông biết rằng được gặp Phật ở đời là ngàn năm khó thấy, vạn năm không dễ hội ngộ, các ông phải mau mau theo lời Phật dạy mà tu học, bảo bối trong biển pháp tuy nhiều, các ông không tham cầu thì không được.

Tôi không còn chút gì chấp ngã, hôm nay cáo biệt các ông, tôi sẽ vào cảnh giới Niết-bàn tịch tịnh. Tôi nguyện theo sau Phật đến nơi bất sanh bất tử vĩnh viễn trường tồn.

Mọi người nghe Tôn giả thuyết pháp, thấy dáng mạo an tịnh của Ngài, ai có thể nghĩ rằng đây là người sắp rời bỏ cõi đời. Vua A-xà-thế và tất cả đều cung kính khâm phục và cũng rất thương cảm. Tôn giả an trụ trong định, nằm nghiêng bên hữu, vào cảnh giới Niết-bàn.

16- TINH THẦN CÒN MÃI TRÊN THẾ GIAN

Tôn giả Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn được bảy ngày, Sa-di Quân-đầu đem hài cốt trà tỳ. Sau đó trở về chỗ Phật, kể hết sự tình cho A-nan nghe, A-nan rơi nước mắt, đưa Quân-đầu đến báo cáo tỉ mỉ với đức Phật, Thế Tôn yên lặng lắng nghe.

Quân-đầu báo cáo xong, đức Thế Tôn thấy A-nan rất đỗi bi thương, nước mắt đầm đìa, mới hỏi:

- A-nan! Ông buồn thảm lo lắng việc gì? Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn điều ấy không quý báu ư? Ông ấy lãnh thọ giáo pháp của ta, rồi khi viên tịch đã đem hết chân lý đi không để lại chút gì sao?

A-nan cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Con chẳng phải buồn rầu lo lắng điều ấy. Tôn giả Xá-lợi-phất phụng trì giới luật, Trí tuệ cao siêu, thuyết pháp khéo léo, mạnh mẽ bố giáo, Ngài luôn luôn nhiệt tình trong công tác, điều ấy không những chỉ chúng con biết mà chúng sanh cũng hoan hỷ xưng tán. Nghĩ đến hôm nay Tôn giả không còn nữa, vì sự lưu bố chánh pháp, vì sự tồn tại của giáo đoàn ngàn vạn năm sau, chịu ảnh hưởng sự Niết-bàn quá sớm của Tôn giả, chẳng phải riêng con lo lắng, con thiết tưởng cả đại chúng cũng đều buồn rầu lo lắng.

Đức Phật biết điều đó là đúng, nhưng điềm đạm an ủi A-nan:

- Ông chẳng nên lo nghĩ. Xá-lợi-phất tuy không còn nhưng chánh pháp chưa từng mất, vô thường xưa nay là thật tướng của thế gian, sanh diệt là lý đương nhiên. Đại thọ trước khi ngã, trước tiên gãy những cành lớn; núi báu trước khi hoại, thì tảng đá to hoại trước, Xá-lợi-phất là người nhập Niết-bàn đầu tiên trong chúng Tỳ-kheo, cũng là thuận theo pháp tự nhiên. Ta không bao lâu cũng nhập Niết-bàn. Các ông đừng thất vọng, giáo pháp của ta chưa từng theo ta mà mất đi. Ta sống mãi ngàn vạn năm trong lòng người tin tưởng, ta luôn chiếu cố đến họ. Các ông cần phải nương nơi pháp, nương nơi chân lý ta đã nói, không nên nương tựa vào ai khác. Tấn nhập Niết-bàn, qua thế giới Cực Lạc là công phu cần thiết đệ nhất .

Phật nói xong, nhận linh cốt Xá-lợi-phất từ tay Sa-di Quân-đầu, nói với đại chúng:

- Các Tỳ-kheo! Linh cốt này trước đây vài ngày còn vì chúng sanh thuyết pháp bố giáo, còn là Đại trí Xá-lợi-phất. Trí tuệ ông ấy rộng lớn vô biên, trừ Thế Tôn ra không ai sánh kịp. Ông ấy chứng ngộ pháp tánh, ít muốn biết đủ, dũng mãnh tinh tấn, thường tu thiền định, vì giáo vì người, hàng phục ngoại đạo, tuyên dương chánh pháp, ông đã chứng quả giải thoát, không còn khổ não.

Các Tỳ-kheo! Hãy xem đây! Đây là di thể do Thế Tôn đích thân cầm lấy.

Khi đức Phật nói lời ấy, bất giác đại chúng đều đảnh lễ linh cốt Tôn giả, cung kính gieo năm vóc sát đất.

Tôn giả tuy ra đi nhưng tinh thần còn mãi mãi trên thế gian.

Thiền viện Bảo Hải


THIỀN VIỆN BẢO HẢI


  Trụ trì: Thích Nữ Hạnh Bình
  Phó trụ  trì:
Thích Nữ Như Vân
Tri Sự: Thích Nữ Nư Hoa
Địa chỉ: Khu phố 5, phường Long Tâm, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.">This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ XÂY DỰNG:

Vào năm 1956 theo nghị định khẩn hoang lập ấp số 116 của tỉnh Phước Tuy, một số dân làng đã tụ tập về đây khai khẩn đất hoang, định cư lập nghiệp. Chính vì nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của người dân như thi sĩ Huyền Không đã viết:

                    Ngôi chùa che chở hồn dân tộc
                    Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Thế là, ngôi chùa Bảo Hải được hình thành giữa ruộng đồng mênh mông nước.

     +    Năm 1975, ngôi chánh điện nhỏ được dựng lên với vật liệu đơn sơ, mái tôn, vách ván.

     +   Năm 1980 chùa được trùng tu lần thứ nhất, ngôi chánh điệnđược xây dựng lại với mái ngói, vách tường.

    +    Năm 1994, nhận thấy toàn chùa đã xuông cấp nên Ban Hộ tự đã về thiền viện Thường Chiếu thỉnh thầy Kiến Chơn về trụ ở chùa để hương khói sớm hôm.

     +    Năm 1996, vì tuổi già sức yếu, thầy Kiến Chơn  về thiền viện Chơn Không Vũng Tàu để tu dưỡng và sư cô Thích Nữ Hạnh Bình được suy cử về trụ trì nơi đây.

     +    Năm 2005, theo kế hoạch chỉnh trang đô thị của thị xã Bà Rịa, nhà nước di dời toàn bộ ngôi chùa cũ qua đất mới. Đây là đợt đại trùng tu trong thời hạn 2005-2010. Đến nay, các kiến trúc cơ bản như: chánh điện, tường rào, trai đường, nhà bếp đã hoàn thành.


II.  BAN CHỨC SỰ 

Trụ trì

Thích Nữ Hạnh Bình

Phó trụ trì

Thích Nữ Như Vân

Tri sự

Thích Nữ Như Hoa

Giáo thọ

Thích Nữ Hạnh Bình
Thích Nữ Như Vân


III.THỜI KHÓA SINH HOẠT: 

Thời Khóa Tu Học

      Sáng:

    3g

    :Thức chúng

    3g -5g30

    : Tọa thiền.

    6g30

    : Tiểu thực.

    7g

    : Công tác.

    10g

    : Xả công tác.

    10g45

    : Thọ trai.

    12g

    : Chỉ tịnh.

      Chiều:

    13g

    : Thức chúng.

    13g30 - 14g

    : Sám hối.

    14g30 -15g30

    : Học Kinh.

    15g30 - 17g

    : Công tác..

    18g30

    : Sám hối.

    19g30  - 20g30

    : Tọa thiền.

    21g

    : Chỉ Tịnh


Một số hình ảnh Thiền viện Bảo Hải


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Liên hệ

           Thầy Thích Đạo Huy
  Số 1c, Phước Thái, Long Thành, Đồng Nai.
  061.354.2631

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Chương Trình Khai Pháp tại TVTL Trí Đức

 

Chương trình khai pháp
Ngày 22/02/2009- 28 tháng giêng Kỷ Sửu

      Sáng:

    7h30'

     : Phật tử tề tựu

    8h

     : Khóa lễ Bát-nhã

    9h

     : Tọa thiền

    9h45’

     :  Xả thiền

    10h

     : Kinh hành

    11h

     : Thọ trai

    12h

     :  Chỉ tịnh (Nghỉ trưa)


    
  Chiều:

    12g 45

     : Lễ Quy Y

    1h30’

     : Học Phật pháp

    2h30’

     :Tham vấn

    3h30’

     : Giải lao

    4h 

     : Hoàn mãn