headertvtc new


   Hôm nay Thứ ba, 16/04/2024 - Ngày 8 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Lão nhân Chánh Thọ

laonhanchanhthoBạch Ẩn Huệ Hạc  -Thuần Bạch và Ngọc Bảo dịch

Trong một vùng xa xôi hẻo lánh, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài cũng như thế giới của thiền tông, có một cái am nhỏ xíu. Trong đó, có một thiền sư sống ẩn dật. Đó là Huệ Đoan Đạo Cảnh. Vì am này có tên là Chánh Thọ Am,nên người ta cũng gọi ngài là lão nhân Chánh Thọ.

Chánh Thọ đúng là một minh sư mà lâu nay Bạch Ẩn tha thiết muốn tìm kiếm. Ngài có rất ít đệ tử, vì những người muốn được ngài thâu nhận phải tỏ ra có một chí nguyện kiên cường. Có đầy đủ bi trí dũng để có thể đạt đạo và nối tiếp sự nghiệp truyền pháp. và đối với những đệ tử, lão sư Chánh Thọ cũng dùng những phương pháp huấn luyện thật gắt gao, thật khắc nghiệt, đến tận cùng.

Bạch Ẩn kể lại sau này rằng, cho tới khi gặp Chánh Thọ, ngài vẫn nghĩ rằng đạt đạo là chuyện tương đối dễ dàng. Nhưng những thôi thúc không ngừng của Chánh Thọ đã làm ý nghĩa đó tan biết ngay, như “cái võ trứng bị đập nát”.

Đông Lãnh, đệ tử của Bạch Ẩn, kể lại rằng thầy của ông khi ở với Chánh Thọ, luôn ở trong tình trạng hãi hùng. “Tay chân run cầm cập, toàn thân nổi da gà”. Có lần Chánh Thọ đã nắm Bạch Ẩn quăng ra ngoài hành lang, rơi xuống đất như “là quăng một con mèo con”. Chánh Thọ đã đưa cho Bạch Ẩn giải những công án thật khó khăn, mà khi tập trung nổ lực cố thông qua, Bạch Ẩn đã có những chứng ngộ sau xa. Và hiểu được tại sao thầy mình lại thúc ép như vậy.

Bạch Ẩn chỉ ở với Chánh Thọ có 8 tháng, nhưng đó là thời gian quan trong nhất trong đời sư. 8 tháng đó đã tạo dựng nên căn bản cho sự giác ngộ viên thông lý và sự mà sau này sư đã hành trì và tuyên giảng cho đến hết cuộc đời. Trong bản Tự Truyện Trường Sinh Thảo, Sư đã kể lại cuộc gặp gỡ giữa ngài và lão nhân Chánh Thọ như sau:     

Khi chúng tôi đến am Chánh Thọ, tôi được thu nhận ngay vào làm đệ tử và được treo gậy ở đó.

Một lần sau khi tôi đã trình lên sự hiểu biết của mình với lão sư, ngài đã nói: Chí nguyện muốn học thiền phải thật chân thành. Ngươi nghĩ gì về công án “Con chó có Phật tánh không?”

“Không có cách gì để tay để chân lên đó được”. Tôi trả lời.

Đột nhiên thầy giơ tay ra nắm mũi tôi. Nhéo một cái thật mạnh ông nói: “Ta để tay thật chặt ở đấy đấy!”.

Tôi ngồi đó chết trân không nhúc nhích gì được. Trong trí tôi không nghĩ ra được một chữ gì để nói cả.

Buổi gặp gỡ này đặt tôi vào một tình trạng rất xúc động. Tôi bực bội và ê chề tràn ngập. Tôi ngồi đó, mắt đỏ hoe khốn khổ, hai má nóng bừng với đôi hàng lệ tuôn rơi không ngừng.

Thấy tội nghiệp, thầy bèn giao cho tôi tham mấy công án như: Bảo tháp của Sơ Sơn,  Con trâu đi qua cửa sổ, Cái chết của Nam Tuyền, Bụi hoa của Nam Tuyền, Vạt áo của Ching-chou, Que cứt khô của Vân Môn.

“Người nào thông qua được bất cứ công án nào trong số đó thì trọn vẹn xứng đáng được gọi là hậu duệ của chư Phật, chư Tổ”. Ngài nói.

Trong tôi chợt bùng lên một niềm phấn chấn mãnh liệt, làm kiên cố thêm chí nguyện sẵn có. Tôi nghiền ngẫm ngày đêm những công án này. Tấn công chúng từ đằng trước. Gặm nhắm chúng từ hai bên. Nhưng chẳng lóe lên được một tia hiểu biết nào. Thất vọng, nức nở tôi thề nguyện: “Triệu thỉnh, triệu thỉnh chư thiên vương, quỷ thần mười phương tám hướng, nếu sau bảy ngày mà tôi thất bại không thông nổi một trong những công án này, xin đến bắt sống tôi đi”.

Tôi thắp một nén hương, cúi xuống đảnh lễ, rồi tiếp tục tọa thiền. Tôi hành thiền liên miên không hề ngưng nghỉ, không để ra một phút nào nằm xuống. Thầy đến la mắng tôi: “Mi chỉ biết hành thiền trong một cái hố”.

Rồi thầy nói: “Nếu hôm nay mi có ra ngoài năm châu bốn biển, đi tìm cùng khắp trên thế giới này một vị chân sư – một người có thể làm hồi sinh được cái kho báu thiền đã bị đóng rào kín lại – thì còn khó hơn đi tìm sao trên trời giữa trưa”.

Nghe vậy tôi lấy làm nghi ngờ. Dù sao đi nữa, tôi lý luận, cũng có biết bao nhiêu là thiền viện trong nước với bao nhiêu là danh sư, nhiều như hạt đậu, như mè vậy. Ông già này, trong cái chùa tồi tàn mục nát này, sao mà kiêu căng ngã mạn thế. Chắc ta nên rời nơi này mà đi chỗ khác tốt hơn.

Sáng sớm hôm sau, vẫn còn nặng trĩu những chán chường, tôi cầm lấy bình bát, đi ra khất thực ở ngoài làng, vùng lân cận lâu đài Iiyama.

Tôi hoàn toàn chú tâm vào công án của mình, không hề xao lãng đi một giây phút nào. Rồi tôi đến trước một căn nhà, bình bát trong tay, đứng lặng người như đang trong mê. Từ trong nhà có tiếng thét vọng ra: “Đi chỗ khác đi! Đi chỗ khác đi!”. Nhưng tôi không hề để ý đến vì trong tâm đang quá chú mục tập trung. Chắc điều ấy làm người trong nhà nổi giận, nên đột nhiên bà ta xuất hiện trước ngưỡng cửa, vung vẫy chổi trên tay. Rồi bà ta nhào tới đập loạn xà ngầu, đánh lên đánh xuống trên đầu tôi như là muốn bửa óc tôi ra vậy. Cái nón rộng vành của tôi tan tành, rách tơi tả. Tôi ngã nhào xuống, nằm thẳng cẳng trên mặt đất, bât tỉnh nhân sự. Tôi nằm đó như người chết rồi.

Lúc đó hàng xóm nghe tiếng ồn ào, đều ló người ra khỏi cửa, tỏ vẻ lo lắng: “Coi kìa, bà già điên đã gây cớ sự như thế đấy”. Họ kháo nhau và vội vàng rút lui vào trong nhà. Một màn im lặng bao trùm theo sau, không một tiếng động xung quanh, không một dấu hiệu gì của sự sống. Một lúc lâu sau, có một người đi ngang qua, họ tiến tới gần tôi, lộ vẻ ngạc nhiên. Rồi họ đỡ lấy người tôi, dựng tôi ngồi dậy. Làm sao thế? Cái gì vậy? Họ xôn xao hỏi.

Trong giây phút bừng dậy mở mắt ra, đột nhiên ý nghĩa của những công án hắc búa và nan giải tôi đã tham khán ngày đêm - những cái móng mèo độc địa ấy – chợt hiện lên thật rõ ràng, thật thấu suốt tới tận gốc rễ. Bỗng dưng, chúng không còn tồn tại nữa. Mừng rỡ, tôi vỗ tay, cười ha hả sung sướng, khiến những người đang tụ lại giúp đỡ tôi hốt hoảng.

Ông này mất trí rồi! Ông thầy điên rồi! Họ la lên sợ hãi lùi ra xa. Rồi họ quay gót, ba chân bốn cẳng chạy mất, không hề dám nhìn lại.

Tôi lồm cồm đứng dậy, vuốt ve lại áo, cột lại cái nón te tua đội lên đầu. Rồi với nét mặt rạng rỡ, nụ cười hoan hỉ, tôi chậm rãi  vui vẻ bước trên con đường trở về chùa. Chợt có một ông già vẫy tôi lại: Đại đức, ông nói với tôi, bà già đó thực tình đã làm thầy một phen mất vía phải không? Tôi thoáng mĩm cười nhưng không trả lời. Ông già dâng cúng một bát cơm rồi để tôi đi.

Tôi về đến cổng am Chánh Thọ, nụ cười nở rộng trên môi. Thầy đang đứng trên hành lang. Vừa nhìn thấy tôi, thầy nói: Mi vừa gặp chuyện gì vui lắm hả? Nói cho ta nghe đi.

Tôi bước đến chỗ thầy kể lể dông dài về kinh nghiệm chứng ngộ vừa qua. Thầy đập cây quạt khẽ đập lên lưng tôi: “Ta thực sự mong mi sẽ sống đến tuổi của ta”. Ngài nói tiếp: “Mi phải cương quyết không bao giờ hài lòng với những sở đắc nhỏ nhoi. Bây giờ đã đến lúc phải nổ lực tu tập cho hậu chứng ngộ. Những người mới có chút đạt ngộ đã cho là đủ sẽ không bao giờ vượt khỏi hàng Thanh Văn. Những người nào ngừng lại không biết tiếp tục hành trì sau khi đạt ngộ thì thế nào rồi cũng chỉ được đến như A la hán Tiểu thừa là cùng. Cái quả vị nhận được ấy thật là tầm thường.[1] Thật đấy, ta thà thấy mi tái sinh vào thân ghẻ lở hôi hám, trơ trụi của một con cáo già còn hơn là trở thành một tăng sĩ Tiểu thừa”.

Nhắc đến sự tu tập hậu chứng ngộ, thấy có ý nói là sau khi đã được chứng ngộ lần đầu, vẫn phải nỗ lực chuyên tâm tu trì và khi sự tu trì đó có kết quả, vẫn phải tiếp tục tiến tới nữa. Khi tiếp tục tiến bước trên con đường đạo ấy, thế nào ta cũng sẽ gặp phải một rào cản cuối cùng rất khó khăn. Điều cần thiết là phải dốc lòng kín đáo hành trì miên mật, cũng như dùng phương tiện chánh trực mà tùy thuận ứng hóa. Đó chính là tinh túy của tinh túy vậy. Đám người thực hành kiểu thiền vô sanh ngày nay nhiều nhan nhản, họ sống như những gốc cây khô im lặng tự quán chiếu, thật còn tệ lậu hơn là những con cáo già ghẻ lỡ hôi hám.

“Cái gì là kín đáo hành trì và phương tiện chánh trực?”. Một người hỏi.

Kín đáo hành trì chắc chắn không có nghĩa là lẩn trốn vào chỗ sơn cùng thủy tận để ngồi đó chết trân như một khúc gỗ hay một tảng đá hay ở dưới một gốc cây im lặng tự quán chiếu. Mà đó có nghĩa là phải hoàn toàn chú tâm tu trì trong tất cả mọi lúc và tất cả mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi. Vì thế có câu nói rằng tập trung tu trì ngay trong lòng hoạt động là siêu việt hơn gấp trăm gấp ngàn, ngay cả gấp triệu lần tu trì trong trạng thái không động.

Kh đã chứng ngộ, nếu ta cứ tiếp tục nhiếp tâm tu hành, rút những nanh vuốt độc hại trong hang pháp ra, xé nát những bùa mê xấu ác đã hủy hoại sự sống con người, duyệt qua những bản văn đủ loại, Phật pháp hay không Phật pháp, tích lũy một kho Pháp bảo thật phong phú, chuyển bánh xe pháp của Tứ hoằng thệ nguyện, thề sẽ độ hết chúng sanh, trong khi mỗi giây mội phút đều dũng mãnh tinh tấn hành bố thí ba la mật mà không có một chút gì, không một mảy may, dính líu đến danh vọng hay lợi ích cá nhân ở bất cứ một hình thức gì. Nếu làm được như thế ta sẽ là một hậu duệ chân chính và hợp pháp của chư Phật Tổ. Phần thưởng đó còn lớn hơn là được tái sinh vào cõi trời người.

Có câu nói rằng phước báo nhân thiên là một lời nguyền trong ba đời, như vậy nghĩa là sao?

Một số lớn đàn ông cũng như đàn bà muốn tìm kiếm sự tái sinh thuận lợi ở đời sau, muốn được thành Phật, muốn được vãng sanh vào cõi Tịnh độ. Họ theo một đời sống thanh tịnh khắc khổ. Hành trì giới luật không bỏ sót chữ nào. Tụng và ấn tống kinh sách liên miên. Thiết lễ cầu nguyện chư Phật, cúng dường chư tăng, lễ lạy thật kính cẩn. Đi hành hương đến những thánh tích chiêm bái khắp mọi nơi nào là Chichibu ở Bando, rồi đến Shikokuo ở miền Tây nước Nhật, đến Nara và núi Koya. Người ta dùng tất cả mọi cách để cố tạo cả ngàn nhân lành. Nhưng chừng nào họ chưa đạt đạo qua sự kiến tánh và nghe được “tiếng vỗ của một bàn tay”, thì họ vẫn còn chưa đến gần được Phật. Họ càng không thể có được một thoáng nhìn vào Tịnh độ. Những gì thế giới này cho là tốt và có lợi ích thực ra là một sự nguy hại trong ba kiếp.

Nói về kiếp này thì thế nào? Bằng những dụng công khó nhọc vô song và làm vô số việc thiện, chắc hẳn kiếp sau bạn sẽ có thể được tái sanh thành một vị hoàng tử, một viên tướng lãnh tài ba, một vị lãnh chúa đầy uy quyền hay có thể là chủ nhân của một gia đình danh gia vọng tộc. Rồi bạn sẽ giàu có và có thể có chức tước như ý muốn. Quyền lực ở trọn trong tay bạn. Chắc chắn là bạn sẽ vui sướng torng những của cải và quyền thế đó. Trong kiếp sống này, những biến cố xảy ra ở kiếp trước của bạn sẽ hoàn toàn bị lãng quên. Tất cả những việc thiện bạn đã làm trong kiếp trước sẽ tan biến đi như những giọt sương trong ánh nắng mặt trời. Bạn sẽ có trong tay bao nhiêu người đàn bà đẹp tuyển lựa các nơi về làm vợ, làm hầu thiếp. Kẻ hầu người hạ răm rắp chờ bất cứ lệnh gì bạn ban ra, thật không kể xiết. Nào là phải có xiêm gấm màu tím cho bà vợ Trương. Vớ bằng tơ mỏng cho cô thiếp Lý. Kho tàng trong nhà không đủ để cung cấp cho những chi tiêu xa xỉ này, bạn sẽ tìm muốn gia tài, bạn sẽ thèm muốn gia tài của người khác, rồi mưu tính tìm cách bóc lột, chèn ép dân chúng cho đến khi họ kiệt quệ, người nghèo bị nghiền nát thành bột. Những hành động đàn áp này sẽ gây cho thần dân của bạn biết bao nhiêu đau khổ.

Nghiệp ác chất chồng càng ngày càng nhiều, thế nào bạn cũng đi ngay vào những cõi giới ác khi chết. Bạn sẽ bị đọa vào ba đường dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) chịu đựng những dày vò đau khổ vô cùng tận hay sẽ tái sinh lại trong tám cõi khó (nơi đó không thể gặp Phật hay Phật pháp để được giải thoát). Trước những sự việc như thế, làm sao chối cãi được là phước báo nhân thiên không phải là lời nguyền trong ba kiếp?

Một vị tăng đứng gần nói: Nhưng chắc chắn là phước báu nhân thiên  chỉ là vấn đề của người cư sĩ thôi. Còn giới tăng ni thì đâu có sao.

Tôi trả lời: “Có chứ, nhưng đó là một vấn đề tôi không muốn nói sâu vào, bởi vì nó sẽ liên quan đếnn của một số tăng sĩ khác”.

Thế thì làm sao một vị tăng có thể tránh được cái xấu hại do phước báu nhân thiên đem đến?

Tôi nói, đầu tiên, người ấy phải kiến tánh – thấy rõ bản chất của mình – và đạt được đạo. Nếu muốn thấy tánh trước hết người ấy phải nghe được “tiếng vỗ của một bàn tay”. Và dù cho có nghe được rồi, cũng không lấy đó làm tự mãn. Người ấy phải lìa tất cả tiếng, và rồi thấu phá, từng cái một, tất cả những công án hắc búa, nan giải nhất. Mặc dù vậy, cũng vẫn còn một rào cản khó khăn cuối cùng.

Vị tăng nói: “Nhưng nếu đã kiến tánh và vào được con đường giác ngộ, chắc là sẽ không còn cái xấu ác nào cản trở nữa chứ”.

“Có chứ! Vẫn còn, nếu ta tạo nó ra.   Nếu không tạo thì không có gì cả. Nhưng những cái ấy để đến sau khi ngộ đạo rồi hãy nói. Lúc ấy có tự đặt những câu hỏi này với chính mình, cũng chưa quá muộn”.

Quan trọng nhất cần phải biết là có ba cách đi theo.

“Xin ngài chỉ giáo”, vị tăng nói.

Người xưa nói rằng một người siêu đẳng sẽ đi theo kẻ thù của mình, một người trung bình đi theo người ơn của họ, và kẻ kém cỏi sẽ đi theo một người có nhiều quyền uy.

Kẻ thù là người mắng chửi thật phủ phàng, dùng tay chân đấm đá, đoạt mất hết cả ruột gan, lục phủ ngũ tạng của bạn. Đó không phải là kẻ thù ư?

Người ơn và người có uy quyền không cần phải có lời bàn tới. Ngay cả nơi này trong những số đệ tử của tôi, cũng có rất nhiều người trung bình và yếu kém. Những đó là lỗi của tôi. Chỉ là vì tôi thiếu sót, sai lầm, không phải lỗi của họ. Nếu tôi có đủ sức mạnh để thúc ép họ, đừng nghĩ rằng họ sẽ cam chịu làm kẻ trung bình hay yếu kém. Có một số người đi theo người ơn của họ là vì thầy họ bảo như vậy và họ không thể từ chối được.

Nói đến trường hợp tôi chẳng hạn. Một ngày nọ, khi tôi còn ở Iiyama với lão sư Chánh Thọ, ngài triệu tôi đến. “Ta biết chỗ ẩn cư trong núi này rất nghèo nàn”. Ngài nói. “Nhưng trong tương lai khi ta làm chuyến hành hương cuối cùng, ta sẽ muốn người đến đây ở đến hết đời.

“Ngài đã may mắn cho người trưởng môn như Kaku rồi”. Tôi trả lời.

Ngài chỉ trả lời: “Ta không thể trông cậy vào hắn”.

Lúc đó tôi chưa nhận ra được ý nghĩa quan trọng của câu nói. Câu nói đó có vẻ gì lạ thường trong đó. Nhưng cách đó ít năm, sau khi Kaku đột nhiên qua đời, tôi mới nhận ra được cái nhìn thấu suốt vô song của Chánh Thọ lão nhân. Thật đáng tiếc là tôi đã không đi theo kẻ thù được và trở thành người siêu đẳng!

Thời gian sau đó, có vài vị tăng trước đây đã chia tay với tôi ở chùa Anh Nham đến Iiyama tìm tôi. Trong khi tôi còn đang lưỡng lự, chưa biết phải quyết định như thế nào, một lá thư nhà gửi đến báo cho tôi biết lão sư Nyoka đang lâm bệnh nặng. Lo lắng, buồn rầu, tôi quyết định lên đường trở về nhà không chậm trễ. Ba vị tăng đang chờ quyết định của tôi thấy thế mừng rỡ bèn hăng hái sửa soạn hành trang cho chuyến trang trở về. Có chừng ba, bốn người cư sĩ tôi đã kết thân trong những tháng dài cùng nhau tu tập tại đây đều đến đưa tiễn tôi. Họ được chính lão sư Chánh Thọ tháp tùng theo. Tất cả cùng đi với chúng tôi đôi dặm đường cho đến khi tới chân dãy núi cao. Từ đó bắt đầu con đường mòn leo lên, thật dốc và vất vả, khiến lão sư già cả không thể đi thêm được nữa.

Chúng tôi trao đổi mấy lời khích lệ lẫn nhau và sắp sửa chia tay, bỗng thầy nắm chặt lấy tay tôi, trầm giọng xuống, nói thật thân ái: “Nếu mi cứ tiếp tục hành trì và sau này tạo ra những người giống như mi, thì đó là mi đã trọn vẹn báo đáp được ơn sâu của Phật Tổ. Sau khi mi rời khỏi đây về nhà chăm sóc cho thầy đang bệnh, mi không được ngừng nỗ lực tinh tấn và hài lòng với những sở đắc nhỏ nhoi. Bây giờ, phải tập trung hết sức lực vào tu tập hậu giác ngộ. Buông bỏ tất cả những vương vấn bụi trần, dù chúng trông có vẻ như không đáng kể. Mi phải không bao giờ quan tâm một chút gì đến chúng. Nếu có cơ hội, một ngày nào đó, mi hãy trở về đây thăm lại nơi ẩn cư nhỏ bé này”.

Nói xong, thầy ra đi mất hút nhưng tôi vẫn ở đó kính cẩn cúi rạp người xuống, áp trán sát tận đất. Trong khi bắt đầu leo lên con đường núi quanh co, đưa tôi xa dần với thầy, trong mắt tôi tràn dâng hai hàng lệ nhạt nhòa.


 


[1] Xin hiểu chữ “Tầm thường” ngài nói đây là so với quả Phật. Không phải so với chúng sinh hoặc bản chất của quả vị đó là tầm thường.

[ Quay lại ]