Y THEO PHÁP, KHÔNG Y THEO NGƯỜI
- Chi tiết
- Được đăng ngày Thứ hai, 26 Tháng năm 2008 10:56
- Viết bởi nguyen
Chân Hiền Tâm
PHÁP là chỉ chung cho những gì ta học hỏi được từ kinh luận, cũng chỉ luôn cho những phương tiện tu hành mà ta đang thực hành, và cuối cùng là chỉ cho Pháp tánh. Pháp tánh là chỉ cho TÁNH KHÔNG của vạn pháp, là PHẬT TÁNH của chúng hữu tình.
Phần thâm sâu nhất của PHÁP là PHÁP TÁNH.
Y THEO PHÁP tức là sống trở lại được với Phật tánh của chính mình. Vì thế, KHÔNG Y THEO NGƯỜI nói đây là không y theo các bậc Thiện tri thức không thuộc Đại thừa. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói “Y nơi pháp tức là pháp tánh. Không y nơi người tức là Thanh Văn”. Thanh Văn là chỉ cho những vị lấy cái định Diệt Thọ Tưởng làm cứu cánh mà không lấy Đại Niết Bàn Pháp Thân làm cứu cánh. Quả vị của các vị chỉ mới là hóa thành chưa phải bảo sở, nên các vị không thể dạy chúng ta trở về nhập lại Phật tánh của chính mình. Vì lý do đó, kinh khuyên “Không y chỉ nơi các vị Thanh Văn”.
Đây là cái chuẩn “Y theo pháp, không y theo người” thứ nhất. Nó là nền tảng cho những thứ Y THEO và KHÔNG Y THEO nói sau.
Trải dài sanh tử, ô nhiễm quá nhiều nên muốn sống lại được với Phật tánh của chính mình, ta phải có một quá trình tu hành mà kinh gọi là tiệm tu. Đây là giai đoạn mà chúng ta cần đến kinh luận, pháp môn và sự giúp đỡ của chư vị Thiện tri thức rất nhiều. Kinh luận hằng hà sa số bao nhiêu thì về LÝ, tinh thần chính cũng chỉ tập trung quanh vấn đề Duyên Khởi, mà mặt triển khai của nó là Nhân Duyên và Nhân Quả. Về SỰ, kinh hay luận đều dạy ta phá trừ bản ngã. Nói cách khác là phá trừ tham - sân - si. Phá trừ tham - sân - si rồi, chúng ta mới có thể trở về ngộ nhập lại Phật tánh của mình. Đây là hai cái chuẩn để ta biết mình nên Y THEO PHÁP thế nào đối với kinh luận. Không có cái chuẩn này, không phải là kinh luận của Phật Tổ.
Pháp môn cũng vậy. Về LÝ, pháp môn ấy phải đáp ứng được cái LÝ đã nói trong kinh luận. Về SỰ, nó có khuynh hướng giúp ta trừ bỏ tham - sân - si và đưa tâm mình trở về VÔ NIỆM. Pháp môn nào đáp ứng đủ cả hai mặt LÝ và SỰ như thế, ta có thể yên tâm y tựa vào đó. Như pháp môn niệm Phật mà Tổ Ấn Quang đã dạy (1). Miên miên mật mật với một câu A Di Đà trong tất cả thời là lấy cái niệm ấy thay cho muôn niệm để ngộ nhập được Thực Tướng Niệm Phật. Hoặc như pháp môn BIẾT VỌNG KHÔNG THEO ta đang áp dụng đây. Nó có khuynh hướng giúp ta buông dần các niệm tưởng, đưa tâm về cảnh giới vô niệm. Đó đều là những pháp ta có thể y theo nếu đủ cơ duyên.
Với tiêu chuẩn kinh luận và pháp môn trên, chư vị Thiện tri thức nào dạy ta tu hành trở về ngộ nhập lại Phật tánh của mình, dạy ta phá trừ tham - sân - si thì ta nên kề cận tham học. Song vì sao đây Phật lại dạy “Không y theo người” ?
KHÔNG Y THEO NGƯỜI là để ta có tầm học hỏi và tu hành được rộng rãi hơn, không phải là không cần đến chư vị Thiện tri thức.
Do ta hay có tâm chấp tướng rất nặng nên Phật dạy mình như thế. CHẤP TƯỚNG là không để ý đến nội dung mà cứ ôm khư khư những hình thức bên ngoài làm thứ quyết định cho mọi vấn đề. Đến với chùa chiền và tu hành theo Phật thì mình phải nương nhờ vào Tam Bảo là lẽ tất nhiên. Song nếu mình chỉ lấy HÌNH TƯỚNG Tăng Ni làm chỗ nương tựa mà quên mất phần NỘI DUNG bên trong thì lại sinh chuyện. Như một Ni từng dạy “Không được cúng quít, để người chết khỏi quấn quít bên thân nhân”. Vậy mà nhiều người làm theo ào ào, chỉ vì một lý do đơn giản : Cô là … sư cô.
Phật dạy ta nhân thiện thì quả thiện, nhân ác thì quả xấu, không dính mắc thì được siêu thoát. Phật không dạy ta mê tín dị đoan. Phật không dạy quả quít quyết định được vận mệnh của con người. Về LÝ lời dạy của Ni không đáp ứng đúng với lời Phật dạy trong kinh. Song mình vẫn làm theo vì mình tin vào hình tướng đầu tròn áo vuông của Ni. Mình tưởng có được mấy thứ ấy choàng vào người là lời nói của Ni đương nhiên có giá trị. Giá trị hay không là do trí tuệ, không phải do áo quần hay do đầu không có tóc. Mình cứ lấy hình thức quyết định luôn cho nội dung nên … phơi thây cùng tuế nguyệt. Vì thế Phật dạy “Y theo pháp, không y theo người”.
Một loại chấp tướng nữa là chấp vào hình tướng giữa Tăng Ni và cư sĩ. Thường, thứ gì Tăng Ni làm, mình thấy có giá trị hơn của cư sĩ. Cầm một cuốn sách lên đọc thấy cũng hay đó, nhưng khi khám phá ra tác giả là một cư sĩ, bỗng dưng mình khởi niệm nghi ngờ. Cũng đều là ngôn từ chữ nghĩa nhưng khi viết đến từ Tăng Ni, mình lại viết hoa mà không viết thường như từ cư sĩ được. Đó là do lòng kính trọng Tam Bảo mà ra. Nhưng vì sự kính trọng ấy mà dính mắc vào đó rồi sinh chuyện lúc nào không hay thì sự kính trọng ấy cũng thành bịnh.
Tại một ngôi chùa, vì bận nên Thầy Trụ Trì mấy đợt liền không dẫn chúng tụng kinh mà để cho một cư sĩ làm chuyện ấy. Thế là có nhiều vị bực bội không yên rồi không đi chùa nữa. Anh chàng ấy dẫn kinh cà xịt cà đụi khiến mọi thứ rối rắm cả lên mà ở nhà thì không có gì để nói. Đằng này anh ta dẫn kinh chẳng khác Thầy Trụ Trì, chỉ vì anh ta là cư sĩ thành mấy bà cụ không chấp nhận.
Tăng dẫn chúng hay cư sĩ dẫn chúng thì tụng kinh cũng cốt để nhiếp tâm của chính mình mà thôi. Việc nhiếp tâm ấy không dính gì đến hình tướng của Thầy Trụ Trì hay anh cư sĩ. Chỉ vì một chút chấp tướng mà sinh bực bội rồi bỏ đi chùa hết mấy kỳ. Cái chấp tướng ấy làm mọi thứ trở nên đình trệ và hạn chế. Vì thế Phật dạy “Y theo pháp, không y theo người”.
Mình tu thiền, vấn đề này lại càng phải cẩn trọng. Lục Tổ khi được truyền y bát vẫn còn là hình tướng của một cư sĩ. Tuệ Trung Thượng Sĩ hay Thiền Tổ phái Trúc Lâm đều là những vị sáng đạo dưới hình thức cư sĩ. Nếu mình để cho kiểu chấp tướng trên chi phối cả nhận thức lẫn hành động của mình, thì tuy là con cháu nhà thiền nhưng chỉ có danh xuông còn thực chất thì không có. Nó nói lên niềm tin của mình đối với Phật tánh hay pháp thân chưa rõ ràng. “Phật tánh không có nam bắc”, vì sao lại so đo hình tướng Tăng Ni hay cư sĩ để mọi việc trở nên đình trệ? Chỉ một chuyện tụng kinh nhỏ nhặt thôi, mình còn chịu không được thì niềm tin thấy tánh sống đạo dưới thân tướng của một cư sĩ mình càng khó chấp nhận hơn. Đó là do niềm tin đối với Phật Tổ và bản thân không đủ, nên mình không đủ niềm tin đối với người. Không có niềm tin vững chắc đối với bản thân thì việc tu hành sẽ lừng chừng giữa đường.
Nói vậy là để mình đừng chấp vào hình tướng bên ngoài khiến vấn đề tu hành của mình bị đình trệ, không phải là để sinh cái tâm hơn người. Nội lực không có, trí tuệ trần trụi, nhân quả sống chưa xong … mà lúc nào cũng như Tổ Phật ngày xưa là đang rơi vào hình thức chấp tướng ngược lại. Thay vì chấp vào hình tướng Tăng Ni, bây giờ lại rơi vào hình tướng cư sĩ. Đây là rủ nhau vào địa ngục cho đông thêm vui.
Cái chấp tướng thứ ba là chấp vào tướng giữa Tăng Ni với Tăng Ni. Đến chùa là phải tìm cho được vị nào lớn nhất trong chùa mới qui y làm đệ tử. Hoặc cạo đầu vô chùa thì phải đợi cho được Hòa thượng ra mới chịu cạo đầu. Qui y hay cạo đầu cũng chỉ là những hình tướng bên ngoài. Cốt yếu là ở phần giữ giới của mình đây. Qui y, cạo đầu rồi mà không giữ giới đàng hoàng thì dù được Phật qui y chăng nữa, cũng không thể lấy cái đó mà khoe với quỉ thần, đừng nói là qui y với Hòa thượng.
Kế là tu học thì phải tu học với ông Thầy chứ ông Trò thì chê. Cũng đúng thôi! Bởi ông Thầy thì phải hơn ông Trò. Nhưng thế gian này là thế giới duyên khởi. Thứ gì cũng có nhân có duyên của nó. Không nhân không duyên muốn cũng không được. Xưa đức Phật không độ được bà già mà đó là nhân duyên của vị đệ tử nhỏ nhất trong Tăng đoàn. Có nhân duyên rồi thì một cái nhíu mày hay một giọt nước mắt của chư vị cũng là thứ để mình ngộ đạo tu hành. Còn nhân duyên ít quá, đeo cho lắm lợi ích cũng thành hạn chế.
Hồi mới đến thiền viện đây, tôi chỉ nghe một mình Hòa thượng Trúc Lâm giảng thôi. Không đến nỗi rơi vào tình trạng chấp tướng trên, nhưng cũng là một loại chấp khá kinh khủng. Lúc ấy, không phải vì Hòa thượng là người đạo cao đức trọng, là Thầy của tất cả Tăng Ni mà tôi làm vậy. Chẳng qua vì sách của Hòa thượng giúp tôi thoát được những bế tắc lúc bấy giờ. Cũng chính vì những trang sách ấy mà tôi tìm đến thiền viện. Vì vậy trong mắt tôi chỉ có mình Hòa thượng. Tôi chỉ đến thiền viện vào dịp cuối tháng và chỉ nghe mình Hòa thượng giảng, còn những vị khác cho ra rìa. Phải chi nghe qua các vị giảng một lần rồi chê thì không nói. Đằng này chỉ mới nghe “Nam mô ...” mà không phải giọng của Hòa thượng là tôi nhỏm đít bịt tai nhất quyết không nghe. Giọng gì mà kỳ cục!
Đã chấp rồi thì chấp theo kiểu nào cũng thành bệnh hết. Việc nghe pháp trở thành hạn chế. Việc tu hành cũng ảnh hưởng theo.
May là cái duyên của tôi còn lớn. Hồi mới ngồi thiền, đâu được mươi ngày thì cảnh giới lạ xuất hiện. Thấy thì bỏ qua rồi. Nhưng mấy tháng sau, vô tình đọc được cuốn Vô Niệm Niệm Phật, thấy tác giả cuốn sách diễn tả cảnh giới mà ngài gọi là Phật tánh, y hệt trạng thái tôi đã trải qua. Nghe đến hai chữ Phật tánh thì không bỏ qua được nữa, nóng lòng muốn hỏi cho ra lẽ. Nhưng không cách gì gặp được Hòa thượng. Chờ thì Hòa thượng không có. Khi Hòa thượng có thì chui vô không lọt. Đành phải chui vào cái thất bên cạnh. Chui vào thất bên cạnh rồi, mới biết là không phải chỉ có Hòa thượng mới giải quyết được sự bế tắc của mình. Sư Ông là ngọn đuốc khơi sáng niềm tin và soi rõ con đường mình đi. Nhưng trên đường đi mình cần có người gần gũi, dìu dắt, dẫn đường như những bạn đồng hành.
Song qua đến Hòa thượng Thường Chiếu rồi cũng cứ chứng nào tật nấy. Tuy có mở tâm một chút, nhưng chỉ hai chứ không có vị thứ ba. Thầy biết cái bệnh cố thủ của tôi, khuyên tôi nên đi nghe giảng thường xuyên, không phải chỉ ở Thầy mà ở cả những vị khác. Từ đó việc nghe pháp của tôi có mở rộng. Quả tình, tôi tìm được rất nhiều thứ trong các buổi giảng pháp mà không phải chỉ ở Hòa thượng Trúc Lâm mới có.
Không phải tới chùa, mình mới được dạy “Y theo pháp, không y theo người”. Ngay cả ngoài đời đây đã có những câu ngụ ngôn dạy mình tương tự như thế. Kẻ không trí có lúc cũng phát biểu một câu nghe rất có lý. Đứa bé con phát biểu một câu có khi già cả đời, mình nghĩ cũng không ra. Như thằng út của chị bạn tôi, 5 tuổi. Một lần chị mua về cho con bé đầu lòng đôi sandale thì con bé mang chật, đi đổi thì làm biếng mà bỏ thì tiếc, chị tính kế dụ thằng bé mang đi học. Lúc đầu thằng bé cự, nhưng uốn ba tất lưỡi, chị dụ được thằng bé xỏ chân. Xỏ chân rồi chị lần đến mục đích cuối cùng “Con thấy đẹp chưa. Mẹ có con mắt mà! Con mang đi học người ta khen đẹp cho coi”. Thằng bé trả lời “Nhưng mẹ già rồi, mắt cũng phải mờ đi chớ!”. Cho rằng một đứa trẻ chỉ biết chơi và ăn thì mình sẽ chẳng nhận được gì trong câu nói ấy. Một câu nói thâm thúy chứa đầy Phật pháp!
Hãy lắng nghe rồi từ chối còn kịp, hơn là từ chối trước khi chưa nghe gì hết.
“Y theo pháp, không y theo người” còn mang ý nghĩa phản quang tự kỷ mà nhà thiền đã nói. Nghĩa là, không nên quan tâm đến những biểu hiện của vị Thiện tri thức mà hãy quan tâm là mình đã nhận được gì từ vị Thiện tri thức ấy. Điều này cũng chí lý thôi. Vì mình đến chùa là để tu học không phải là để phê phán hay đánh giá người khác. So sánh đánh giá hoài, chỉ làm tăng thức phân biệt của mình, là điều tối kỵ trong nhà thiền. Hướng ra phân biệt hoài thì biết bao giờ mình mới ngộ đạo và sống được với đạo? Đã không chủ tâm phát huy thức phân biệt thì đâu cần phải mất thì giờ với những biểu hiện bên ngoài của mọi người.
Quan trọng là mình học được gì ở chư vị. Học pháp với vị ấy mà tham sân mình mỗi ngày mỗi bớt, mình ít dính mắc với ngoại cảnh hơn là được rồi. Còn vị ấy thế nào không ảnh hưởng gì đến mình. Vị ấy nói nhiều mà trị được cái tật nói nhiều của mình thì cái nói nhiều ấy chính là pháp trị bịnh cho mình. Vị ấy hét mà cái hét ấy khiến mình nề nếp hơn thì cái hét ấy là pháp cho mình. Vị ấy hiền hòa mà cái hiền hòa ấy khiến mình sửa đi những tật xấu của mình thì cái hiền hòa ấy là pháp cho mình. Vị ấy cộc lốc vô tình mà khiến mình tự tại được với những yêu ghét của thế gian thì cái cộc lốc ấy là pháp cho mình. Phản quan tự kỷ theo kiểu như vậy thì hành tướng nào cũng là hóa thân của chư vị Bồ tát giúp mình tu hành. Thực hành như vậy thì không còn thì giờ đâu để hướng ra ngoài so đo phân biệt thế này với thế kia. Quan trọng là mình tha thiết với việc tu hành thì hình tướng nào cũng thành đạo đối với mình hết.
Trước tôi có một chị bạn. Kêu chị chứ cũng hơn 60 rồi. Chị theo học pháp với một Thầy thuộc hệ phái Tiểu thừa ở tận Vĩnh Long hay Long Xuyên gì đó. Tuy là Tiểu thừa, nhưng Thầy nói về Phật tánh như bên Đại thừa. Nhìn cách chị kể, tôi thấy Thầy dạy chị những phương cách rất gần với nhà Thiền. Tôi hỏi chị vì sao lại đi xa vậy chỉ để học những thứ mà ở Long Thành này cũng có. Chị nói vì Thầy “dữ dằn”. Cái dữ của Thầy mới trị được cái bệnh cứng đầu cố chấp và mớ bòng bong trong người chị. Khi nào chịu không được thì chị lặng. Nhưng khi nguôi ngoi, chị hiểu con ngựa chứng như chị nếu không có cái cứng rắn và phương thức thẳng thắn của Thầy, đến chết chị cũng không thay đổi được gì. Không bỏ được, kiếp sau trồi đầu lên chị lại phải điêu đứng vì những cái không đâu như kiếp này. Thành xa xôi bao nhiêu, bực bội thế nào, tỉnh hồn rồi chị cũng lết về với Thầy.
Mới thấy không phải chỉ có nụ cười hiền hòa, phong thái tự do tự tại mới là chân Thiện tri thức của người tu. Tự tại mà không lợi ích cho ai, chỉ khiến người thêm bê tha không giới luật thì trong vấn đề giáo hóa, cái tự tại ấy thành vô ích. Vì thế, đức từ bi không chỉ có trong phong thái dịu dàng của Bồ tát Quán Thế Âm mà cả ở hình tướng dữ dằn của ngài Tiêu Diệm. Ngài Duy Ma nói “Chúng sanh ở cõi này cang cường khó giáo hóa nên Phật dùng những lời cang cường để điều phục họ … Vì những người khó giáo hóa, lòng như khỉ vượn nên dùng bao nhiêu pháp để chế ngự lòng họ. Như voi ngựa ngang trái không điều phục được, cần phải đánh đập dữ tợn cho đến thấu xương mới điều phục được. Chúng sanh can cường khó giáo hóa cũng như thế. Phải dùng tất cả những lời khổ thiết mới có thể đưa họ vào khuôn khổ”. Sử dụng đúng lúc đúng nơi thì 2 hình tướng tuy trái nhau nhưng cùng chung một mục đích là lợi ích cho chúng sanh. Không y pháp mà chỉ y người thì đi đâu mình cũng thấy trở ngại, đụng đâu mình cũng thấy rào chắn. Việc học hỏi của mình sẽ đình trệ không tiến tiển được. Vì thế Phật dạy “Y pháp bất y nhân”.